Truyen30h.Com

Co Thanh Be Milan Lady

(*) Câu cuối bài "Điệp luyến hoa – Xuân sự lan san phương thảo yết" của Tô Thức thời Tống.

1. Khói mù

Tóc xanh xõa xượi ven gối đầu, nàng nằm nghiêng mình vào trong, chăn gấm chỉ đắp tới khuỷu tay, để lộ nửa bóng lưng mặc áo đơn trắng, khiến nàng nom càng thêm gầy trơ xương, mong manh không chân thực như hình người vẽ bằng bút mực vậy.

Ta nhẹ nhàng đi tới trước sập, im hơi lắng tiếng, nàng như có cảm ứng, từ từ xoay người lại.

Mí mắt nàng phù thũng, làn da xám xịt thiếu ánh sáng, dáng vẻ một đêm không ngủ. Trông thấy ta, nàng cũng chẳng ngạc nhiên, bình tĩnh nhìn ta chăm chú, đôi môi khô khốc mấp máy, nhếch lên một nụ cười không một nét vui: "Chúc mừng ta đi, Hoài Cát, rốt cuộc ta cũng đón nhận 'ái tình nam nữ' mà các người nói rồi."

Ta nín lặng đứng đó, muốn nói câu chúc mừng, cũng cố gắng cười với nàng, nhưng lại chẳng phát ra nổi âm thanh nào, cũng cảm nhận được gương mặt mình cứng ngắc, nếu quả thực đang cười thì nhất định không thể dễ nhìn hơn khóc.

"Thế, huynh có muốn biết cảm thụ của ta không?" Nàng hỏi ta, giọng vẫn êm dịu ôn hòa, tựa như chủ đề đang nói chỉ là bình phẩm thư họa.

Ta hơi nghiêng đầu đi, biểu đạt mình tránh né câu hỏi này. Tầm mắt nàng vẫn ơ hờ đuổi theo ta, mang sự bình tĩnh dị thường như chuyện chẳng liên quan đến mình, nàng phun ra một chữ: "Đau."

Trong sự trầm mặc của ta, nàng ngậm nụ cười miễn cưỡng ban đầu, quay mặt nhìn lên trên, một mình độc thoại: "Đó cũng là cảm giác hôn nhân với Lý Vĩ đem lại cho ta... Các người đều nói, như vậy mới có thể khiến cuộc đời ta viên mãn, nhưng cái ta cảm nhận được còn đau đớn hơn cả chặt tay đứt chân..." Nói tới đây, nàng lại dời mắt nhìn ta, giọng mềm khẽ như rủ rỉ: "Hoài Cát, ta cũng là kẻ không lành lặn rồi."

Ta không sao kiềm chế nổi nữa, hai giọt lệ ứa khỏi hốc mắt, quỳ rạp xuống trước sập nàng, vỏ ngoài cứng rắn duy trì mọi lý trí và lễ nghi suốt hơn hai mươi năm bị một lời của nàng phá vỡ, ta hoàn toàn sụp đổ, chẳng còn sức lực che giấu điều gì, thất thanh bật khóc, trái tim yếu ớt vốn được bao bọc tầng tầng lớp lớp hoàn toàn lộ ra trước mắt nàng.

Dẫu là khi còn nhỏ, ta cũng chưa từng chảy nhiều nước mắt như vậy, bất kể ta có bị chèn ép hay ức hiếp đến mức nào. Nhưng giờ khắc này, ta không cách nào kìm nén được những giọt lệ trào xuống như vỡ đê, cũng không muốn kìm nén, chỉ để mặc chất lỏng ấm nóng ấy theo trận khóc thảm thiết của mình cọ rửa nỗi nhục ta gánh, khơi thông đau đớn ta đeo.

Ta cúi đầu khóc, không nhìn thấy vẻ mặt của công chúa khi đó, mà nàng cũng một mực im lặng, chẳng thút thít cũng không nói với ta bất kỳ lời an ủi nào. Lát sau, nàng chống người ngồi dậy, lại cúi người về phía, vươn hai tay ra ôm ta vào lòng như người mẹ ôm đứa trẻ, áp một bên má lên trán ta.

Giữ nguyên tư thế dịu dàng ấy, nàng nhẹ giọng: "Đã qua cả rồi, chúng ta còn bên nhau."

Ta thỏa hiệp với mình, không suy nghĩ đến chuyện rời khỏi nàng thế nào nữa, dẫu ta biết đó là điều chẳng thể tránh khỏi, sớm muộn rồi cũng sẽ xảy ra.

Chúng ta vẫn như trước kia, khi nàng vẽ trúc mực, ta theo hầu phẩm bình, khi nàng đàn không hầu, ta thổi sáo thử âm, trời mưa che ô cho nàng, gió nổi khoác áo vì nàng... Tựa hồ tất thảy đều không thay đổi, song, chúng ta đều tự giác không nếm thử ở chung vào ban đêm, cũng cẩn thận tránh né đụng chạm da thịt, lại càng không nhắc đến những chuyện ngầm liên quan đến những gì xảy ra giữa đôi ta và đau đớn kia, sợ ký ức nơi ấy như vết thương chưa lành, chạm nhẹ vào sẽ lập tức chảy máu.

Ngày kế sau khi công chúa và phò mã động phòng, nghe nói quốc cữu phu nhân rất mừng rỡ, chuẩn bị vào cung báo tin vui với đế hậu, song Lý Vĩ lại nổi giận lôi đình, kịch liệt phản đối mẫu thân báo việc này cho người trong cung. Dương phu nhân chưa bao giờ thấy dáng vẻ thịnh nộ ấy của hắn, trong cơn giật mình cũng bị hắn dọa sợ, không đi thông báo việc này nữa. Sau đó lại tới nói xa nói gần khuyên công chúa tiếp nhận phò mã thêm một lần, công chúa đều lạnh mặt ứng đối, Dương phu nhân chỉ đành hậm hực trở về. Có lẽ sau đó cũng đặc biệt để ý đến tình trạng giữa ta và công chúa, thấy hai ta đều giữ nghiêm lễ nghĩa nên cũng không sinh sự, chỉ nhắc lại chuyện nạp thiếp, bảo phò mã nạp Vận Quả Nhi. Lý Vĩ cũng nghe lời, nhanh chóng thu Vận Quả Nhi vào phòng. Sau khi nạp thiếp, ngoài đôi lúc ngủ chung với Vận Quả Nhi, hết thảy sinh hoạt còn lại của Lý Vĩ đều như thường, vẫn dốc lòng nghiên cứu thư họa. Vận Quả Nhi tuy được sống cuộc sống ăn sung mặc sướng có người hầu hạ, song cũng chẳng hoan hỉ như đa số tân nương, có điều, vẫn một mực cung kính với công chúa, lễ pháp hầu hạ chủ mẫu không thiếu chút nào. Mọi người trong phủ công chúa bèn duy trì trạng thái yên ổn bề ngoài đó, song ai nấy đều nặng nề tâm sự ngày qua ngày.

Đến tháng Mười một, Gia Khánh Tử đúng kỳ hạn thành hôn với Thôi Bạch. Trước khi rời phủ, Gia Khánh Tử quỳ xuống trước mặt công chúa, khóc đứt ruột đứt gan. Công chúa ngậm cười an ủi nó: "Ngày đại hỉ đừng có làm như sinh ly tử biệt thế. Em xuất giá rồi vẫn có thể thường xuyên quay về thăm ta mà, có phải là chúng ta không được gặp lại nhau nữa đâu."

Chúng thị nữ còn lại cũng nhao nhao khuyên nhủ, một lúc lâu sau Gia Khánh Tử mới nín khóc. Công chúa sai người trang điểm lại cho nó, lại kéo tay nó ngắm thật kĩ, nghĩ ngợi đôi chốc, tay trái tuột chiếc vòng tay bạch ngọc dương chi đã đeo kha khá năm trên cổ tay phải xuống, dọc theo hai bàn tay đang nắm nhau của họ, luồn sang cổ tay Gia Khánh Tử.

Gia Khánh Tử cả kinh, luôn miệng khước từ, vội vã muốn trả lại vòng ngọc cho công chúa. Công chúa đè tay nó lại, nói: "Của hồi môn cho em toàn là đồ vật người khác chuẩn bị, đó giờ ta vẫn luôn muốn tặng quà riêng cho em, nhưng tìm mãi chẳng được cái nào tử tế. Chiếc vòng này ta đã đeo được mấy năm, hôm nay em mang nó theo, thường ngày trông thấy cũng như ta vẫn còn bên em vậy."

Bấy giờ Gia Khánh Tử mới chịu nhận, một lần nữa rưng rưng bái tạ, công chúa hai tay đỡ nó dậy, cẩn thận quan sát hồi lâu, cuối cùng thở dài đầy cảm khái: "Kể ra, mấy cô gái lớn lên cùng ta từ nhỏ đều gần như chẳng một ai được sống hạnh phúc. Mà em lại cưới được lang quân như ý, hẳn là sẽ khác chúng ta... Khỏi nói lời khách khí nữa, em chỉ cần sống vui vẻ với Thôi Bạch là đã tạ ơn ta rồi."

Giờ lành đã điểm, Gia Khánh Tử phải ra cửa. Nó bái biệt công chúa lần cuối, bước từng bước ra ngoài. Công chúa cầm lòng không đậu, đứng dậy ra sân tiễn nó. Lúc Gia Khánh Tử sắp ra khỏi gác, công chúa chợt mở miệng gọi nó.

Gia Khánh Tử dừng bước, quay đầu dò xét: "Công chúa?"

Ánh mắt ấm áp của công chúa vuốt ve khóe mắt chân mày người hầu gái đã hầu mình nhiều năm, nàng mỉm cười, dịu dàng nói lời căn dặn cuối cùng: "Em nhất định phải thật hạnh phúc đấy."

Đợi Gia Khánh Tử ra khỏi cửa rồi, nàng mới xoay người về phòng, nước mắt kìm nén bấy lâu bỗng tuôn trào, rơi xuống sau lưng tân nương nơi cô gái chẳng thể nhìn đến.

Sau khi Gia Khánh Tử xuất giá, công chúa càng có vẻ hiu quạnh, lệ thuộc vào ta cũng càng ngày càng sâu, nàng cần ta bầu bạn không rời như hình với bóng, dầu ta chỉ tạm thời rời đi một chớp mắt thôi, ánh mắt nàng cũng sẽ đuổi theo ta, trên gương mặt là thần sắc phiền muộn mất mát.

Miễn là ban ngày, ta đều tận lực ở bên nàng, đáp ứng tất cả yêu cầu của nàng, không để nàng có chút nào không vui do mình. Ta trân trọng mỗi một khoảnh khắc chung đụng giữa chúng ta, bởi ta biết khoảng thời gian tưởng chừng bình yên này giống như chén lưu ly vậy, bất cứ lúc nào cũng có thể bị đánh vỡ, nhất là sau khi ta gặp Tư Mã Quang.

Ta vốn tưởng rằng ngay ngày kế sau khi hai ta gặp nhau, y sẽ lập tức xin kim thượng hạ lệnh đuổi ta khỏi phủ công chúa, một lần nữa lưu đày tới nơi xa xôi hẻo lánh, song ta vẫn được hưởng một tháng êm đềm, khi nghĩ thầm đến, lại cảm thấy hết sức kinh ngạc. Có điều, cũng nhanh chóng biết được nguyên nhân trong đó.

Tháng ấy, lúc công chúa dẫn ta vào cung, thỉnh an kim thượng ở Phúc Ninh Điện, kim thượng cân nhắc câu chữ, đề cập với công chúa chuyện chuẩn bị điều ta trở lại trong cung: "Nội thần chủ quản Thiên chương các đã già rồi, đang xin cáo lão về hưu. Ta thấy nội thần hai tỉnh tiền hậu nếu không phải đang kiêm nhiệm liền mấy chức, không tiện điều đi, thì cũng là dốt nát thiếu học, không đảm đương được chức quan quản lí văn thư ngự chế. Nghĩ tới nghĩ lui, thấy Hoài Cát là một lựa chọn thích hợp..."

Ngài vừa nói tới đây, công chúa tức khắc trợn mắt, hỏi thẳng: "Cha muốn điều Hoài Cát rời khỏi con chứ gì?"

Kim thương khá lúng túng, ngập ngừng nói: "Cũng không phải như vậy... Quả thực không tìm được ai thích hợp..."

"Cha không tìm được thì để con tìm." Công chúa lập tức nói, "Con gái cũng quen biết vài nội thần vừa thạo văn chương vừa đang rảnh rỗi đấy, có thể liệt kê ra cho cha lựa dùng."

Kim thượng im lặng, hồi lâu không đáp. Hoàng hậu bên cạnh thấy vậy, thở dài, nói rõ với công chúa: "Huy Nhu, việc đến nước này rồi, chúng ta cũng chẳng lừa con nữa. Sáng sớm một tháng trước, đồngtri gián viện Tư Mã Quang đã biết Hoài Cát trở về, dâng sớ xin cha con không thay đổi mệnh lệnh khi trước, cách chức trục xuất nó. Cha con đè xuống không để ý tới, y lại liên tiếp luận hặc cùng đám ngôn thần Dương Điền, Cung Đỉnh, đồng thời thỉnh cầu biếm trục Hoài Cát. Cha con một mực không tỏ thái độ, hôm qua Tư Mã Quang lại dâng sớ, lần này lời lẽ rất quyết liệt, hơn nữa, còn nhắc tới con..."

Hoàng hậu hơi dừng lại, quay sang kim thượng, trong mắt có ý xin chỉ thị. Kim thượng hiểu ý bà, bèn gọi Nhậm Thủ Trung qua, nhỏ giọng phân phó đôi câu, Nhậm Thủ Trung liền đi về phía bàn sách, lấy một cuộn trát ra, sau đó đi tới, đưa cho công chúa.

Công chúa mở ra xem, vô cùng tức giận, ném trát xuống đất, tức tối nói: "Tay Tư Mã Quang này nói năng lỗ mãng, ngông cuồng vô lễ như thế mà sao cha không trách phạt y?"

Đế hậu nhìn nhau, đều không cất lời. Ta nhặt trát lên, mở ra xác nhận tên ký của Tư Mã Quang trước rồi bắt đầu xem xét nội dung bên trong.

Mở đầu, Tư Mã Quang luận về chuyện che giấu đón về, tiếp đó chĩa thẳng mũi giáo vào công chúa và kim thượng: "Thần nghe làm cha thương con thì phải dạy lấy chính nghĩa, tránh phải đường tà. Công chúa sống trong thâm cung, thiếu thời thơ ngây, không được dạy bảo nghiêm khắc, không tường đạo lý được mất. Thần cho rằng bệ hạ nên lấy đức khuyên bảo, lấy lễ chỉnh đốn, chọn người đứng tuổi cẩn thận, hầu hạ hai bên, sớm chiều khuyên răn, tiếp nạp đường ngay, phải ngăn cản kiềm chế, không thể để mặc thị cậy ơn tùy tiện, đòi hỏi trái phép, từ đây chấm dứt nuông chiều."

Y vừa thẳng thắn công kích công chúa cậy ơn phóng túng không hiểu phép tắc, vừa ngầm phê bình kim thượng không biết dạy dỗ, chiều chuộng con gái thái quá. Trong văn, y còn nhắc lại chuyện ta bị biếm trục trước đây, lời lẽ rất nghiêm khắc, nói ta "tội ác như núi, đáng bị tru diệt". Mà "bệ hạ khoan hồng chỉ đuổi hắn ra ngoài. Người trong ngoài vừa ngơi bàn luận, vẻn vẹn mấy tháng đã lại vời về. Ngoài đường xôn xao, lời tiếng đáng sợ, ấy đâu phải mỹ đức đoan trang công chúa nên biểu lộ, cũng nào thể hiện bệ hạ dạy con chính nghĩa chuẩn mực."

Cuối trát, y một lần nữa tỏ rõ thái độ và yêu cầu của mình: "Thần vô cùng căm phẫn sốt ruột, lấy làm tiếc thay cho bệ hạ. Mong thánh thượng soi lòng thần ngu trung, xét lại mệnh lệnh đã dừng thi hành khi trước, chớ để thiên hạ chỉ trỏ, cho là sai lầm, làm tổn hại thánh đức, chẳng phải chuyện nhỏ."


2. Quyến luyến

Ta trả lại trát cho Nhậm Thủ Trung rồi đứng thẳng người chỉnh trang, không nói nửa lời, bái tạ kim thượng. Nếu chiếu theo ý Tư Mã Quang, ta đại khái hẳn phải bị lăng trì xử tử, mà kim thượng lại không nghe ngôn quan thỉnh cầu, nghĩ ra cách xử lý cất nhắc ta làm quan chủ quản Thiên chương các, ấy là ơn nghĩa bằng trời mà ngài nể tình công chúa ban cho ta, tuy rằng mục đích làm vậy cũng là để chia tách ta và nàng.

Công chúa rảo bước tới, ngăn ta làm động tác tạ ơn. "Không được!" Nàng nhíu mày lắc đầu với ta, hiển nhiên đã hiểu sự cảm kích của ta đối với kim thượng thành chấp nhận an bài của ngài. Xoay người lại đối mặt với cha, nàng nói: "Đám ngôn quan chính sự thì chẳng quan tâm, cả ngày chỉ biết chăm chăm dán mắt vào khuê các cung quyến, luận bàn xoi mói chuyện vặt vãnh linh tinh, thật vô vị hết sức. Cha đừng lý tới họ, cứ mặc họ lải nhải mấy ngày đi, chờ đến khi họ tự biết chán rồi chuyện này cũng sẽ qua. Nếu cha thuận theo ý họ lần này, họ ắt sẽ càng phách lối, lần sau chẳng biết sẽ còn lấy chuyện hạt vừng hạt đỗ gì ra giày vò cha!"

Kim thượng lắc đầu: "Ta vốn cũng không muốn lý tới, chờ họ ngừng công kích, nhưng kết quả họ lại càng thêm hăng hái, o ép từng bước... Vì Hoài Cát là nội thần, con lại là con gái hoàng đế, thân phận không tầm thường, nên chúng ngôn quan viện dẫn đạo lý phòng bị hoạn giả trong gia pháp tổ tông khuyên ta không thể để hai đứa tiếp tục chung sống..."

Công chúa nghe vậy cười khẩy: "Nội thần trong cung nhiều như vậy, cũng đều phục vụ cung quyến có thân phận đặc thù, chẳng lẽ họ cũng viện dẫn gia pháp tổ tông đuổi hết hoạn giả ra khỏi cung?"

Kim thượng thở dài não nề: "Trong cung tuy nhiều nội thần nhưng làm gì có thứ chọc người ta bàn tán như hai đứa đâu!"

Công chúa ngẩn người, quay sang nhìn ta, hai má không khỏi ửng hồng, ngậm miệng cụp mắt.

Hoàng hậu nhìn trong mắt, lúc này chậm rãi đi tới, cầm tay công chúa, dắt nàng ngồi xuống bên mình, lại hòa ái nói với nàng: "Thực ra chư ngôn quan cũng chưa chắc đã thật sự muốn lấy mạng Hoài Cát, chỉ là thấy nó hồi kinh, quay lại làm việc trong phủ công chúa, khiến họ cảm thấy gián ngôn trước đây không được tiếp nhận, thánh thượng hãy còn nuông chiều, hành xử theo ý con, nên mới nổi giận, sợ mở cái lệ này rồi, về sau quan gia khó mà chịu tiếp nhận lời trung, chúng nội thần cũng sẽ vì thế mà kiêu căng phách lối, gây ra rắc rối lớn hơn. Thế nên, lần này họ quyết tâm muốn chia rẽ hai đứa. Nếu quan gia không cho một câu trả lời thỏa đáng, họ ắt sẽ bám riết không tha, tiếp tục truy cứu. Bây giờ cha con nghĩ ra cách này, cho Hoài Cát về cung làm việc ở Tàng thư các, vừa bày tỏ tiếp nhận ý kiến ngôn quan, vừa bảo vệ Hoài Cát chu toàn, có thể nói là vẹn cả đôi đàng..."

"Nhưng làm vậy có khác gì lưu đày Hoài Cát tới Tây Kinh đâu?" Công chúa ngắt lời hoàng hậu, nói, "Huynh ấy rời khỏi con, lại chẳng làm việc trong hậu cung, chúng con chẳng thể gặp nhau nữa... Bất kể ngăn cách giữa chúng con là mấy tòa thành hay một vách tường thì kết quả cũng như nhau – con không gặp được huynh ấy!"

Hoàng hậu im lặng, kim thượng nghĩ ngợi rồi lại cất tiếng trấn an nàng: "Hai đứa chưa chắc đã không thể lại gặp nhau. Lúc con về cung có lẽ vẫn có cơ hội gặp nó, hoặc giả, vào các dịp lễ tết trong năm..."

"Đến dịp lễ tết thì nhìn nhau một cái xa xa cách ngàn non muôn nước, biển người trùng trùng?" Công chúa lập tức hỏi vặn lại, lạnh lùng lau ánh lệ lấp ló nơi khóe mắt, nàng nhìn cha chằm chằm, lại nói: "Dù không có ngôn quan bức bách, cha chắc chắn cũng muốn tách con và Hoài Cát ra. Làm chúng con từ từ xa cách như cha thiết tưởng chính là sách lược cha quyết định chọn dùng sau khi suy nghĩ cặn kẽ."

Kim thượng nhất thời cả giận, phất tay áo vung ly chén trên bàn xuống, mắng công chúa: "Con vì một nội thần mà không để ý thân phận, liên tiếp làm chuyện thất thố, ném tất thảy hoàn cảnh của phụ mẫu, tôn nghiêm của phu quân, danh dự của tông thất và danh tiết của mình ra sau đầu! Tư Mã Quang chỉ trích con 'không được dạy bảo nghiêm khắc, không tường đạo lý được mất', hôm nay xem ra quả thật không sai một chữ! Người khắp thiên hạ bây giờ đều đang chờ nghe bê bối của con, xem trò cười của con, mà con vẫn chẳng biết hối cải, không hiểu kiêng kỵ, khư khư cố chấp, khiêu chiến công luận ngôn quan, không biết lý lẽ bậc này thật phụ minh huấn hiền quyên được học từ nhỏ!"

Nói xong lời này, kim thượng vẫn chưa nguôi giận, vung tay chỉ vào ta, nói tiếp với công chúa: "Con nhìn lại cái tên mà con cam nguyện phạm sai bằng trời vẫn một lòng giữ gìn này đi, nó chỉ là một nội thần, một hoạn giả, một đứa không thể gọi là nam nhân! Phò mã yêu kính con như vậy mà con một mực khinh thường nó, lại quyến luyến người này đến thế, không cảm thấy nực cười ư?"

Công chúa nghe vậy, hai mắt loang loáng, nàng lấy tay bưng kín đôi môi run rẩy, khó khăn lắm mới khống chế được buồn đau lúc này, mãi sau mới ngẩng lên nhìn kim thượng, khẽ giọng: "Cha nói phò mã kính yêu con, nhưng hắn có thật là yêu con không? Không, hắn yêu công chúa, hắn có thể yêu bất kỳ một công chúa nào, như yêu cây gậy gõ viên nạm vàng điểm ngọc hay thẻ tre người Tấn và đan thanh người Đường vậy. Hắn khổ luyện gõ viên, sưu tầm thư họa vốn chẳng phải xuất phát từ hứng thú chủ tâm mà bởi đó là thú vui tao nhã của hoàng tộc tông thất và chư học sĩ đại phu. Hắn tìm mọi cách lấy lòng con, hi vọng là phu quân chân chính của con, cũng không phải xuất phát từ tình cảm đối với bản thân Huy Nhu mà là bởi con đến từ chín tầng cung khuyết, nơi gửi gắm cái đích hắn muốn hướng tới. Giống như ếch xanh trong hồ ao ngưỡng vọng chim bay trên trời, hắn khát vọng cuộc sống của chúng ta, muốn trở thành người như chúng ta. Nếu con không phải công chúa thì đối với hắn, e rằng cũng chỉ là một đứa con gái ngạo mạn ngang ngược, hắn liệu có còn yêu kính con như bây giờ?"

Nghe nàng giãi bày, vẻ giận dữ trên mặt kim thượng dần biến mất, thay vào đó là sự trầm mặc xen lẫn hoang mang.

Công chúa nhìn ta, giọng pha nghẹn ngào: "Mà Hoài Cát, huynh ấy chăm sóc và thương yêu con không chỉ là tuân theo yêu cầu của chức vụ. Lần đầu chúng con gặp nhau, huynh ấy không biết con là công chúa mà đã quyết định bất chấp nguy cơ bị sủng phi của cha hãm hại, bảo vệ con. Con mặc kệ trong mắt các người, huynh ấy là người thế nào, con chỉ biết mười mấy năm qua, huynh ấy cùng con lớn lên, chỉ dạy con đọc sách viết chữ, cùng con học âm luật, cùng con đốt hương châm trà, lại cùng con vẽ tranh điền từ... Huynh ấy không chỉ là nội thần hầu hạ con mà càng giống huynh trưởng, sư phụ và bằng hữu của con hơn. Chúng con tâm ý tương thông nên chỉ cần con đánh mắt một cái, huynh ấy lập tức biết con muốn truyền ý gì... Huynh ấy mong con vui vẻ, nhưng cũng không lấy lòng con vô tội vạ. Huynh ấy thậm chí còn có lúc cười nhạo chọc giận con, nhưng đó chẳng qua chỉ là để đốc thúc còn làm việc nên làm... Trước mặt huynh ấy, con có thể vứt bỏ cái vỏ công chúa, hoàn nguyên làm một tiểu nữ tử bình thường. Ánh mắt Lý Vĩ nhìn con luôn co quắp, ngưỡng mộ, còn Hoài Cát thì không, khi huynh ấy nhìn con, con có thể cảm nhận được trong mắt huynh ấy không phải công chúa mà là một nữ tử huynh ấy quý trọng.

Kim thượng hé miệng như muốn nói điều gì, nhưng còn chưa kịp cất tiếng đã bị công chúa cướp lời, hỏi ngài một câu sắc bén: "Cha, trong vài chục năm cha sống có từng gặp một nữ tử nào như vậy không, yêu cha kính cha chỉ vì cha là cha chứ không phải cha là hoàng đế?"

Kim thượng hoàn toàn cứng họng, ánh mắt lướt qua hoàng hậu, đôi con ngươi đối mắt với hoàng hậu vụt chớp tia sáng nhạt, ngài lại quay đầu đi.

Hoàng hậu lại tỏ ra rất bình tĩnh, thấy kim thượng không nói gì, bèn tiếp lời khuyên công chúa: "Tâm ý Hoài Cát hầu hạ công chúa, chúng ta đương nhiên hiểu rõ. Công chúa tin cậy Hoài Cát, hi vọng có thể bảo vệ nó, chúng ta cũng có thể thông cảm. Chỉ có điều người đời ngoài kia lại không tường, thấy hai đứa chung sống hòa hợp là dễ dàng sinh nghi bậy bạ, nếu con tiếp tục chung đụng với Hoài Cát thế này, quá mức thân cận, không khỏi để người ta đặt điều..."

Công chúa cười: "Con mặc kệ người ta nói gì. Con chỉ biết con không thể để Hoài Cát rời đi, nếu không con sẽ không thể tìm được ai như huynh ấy nữa."

Hoàng hậu cau mày, song cuối cùng vẫn không phản bác công chúa, duy trì tư thái bình tĩnh, nghe nàng nói tiếp: "Huynh ấy có thể xem hiểu mọi hỉ nộ ai lạc của con, cũng cùng kinh qua vui buồn ly hợp với con. Nương nương, người có biết không, huynh ấy là người như thế: Khi người vui vẻ không ưu sầu, huynh ấy sẽ lặng lẽ lùi về sau, cam nguyện làm cái bóng sau lưng người, nhưng khi người sa phải nghịch cảnh, bi thương bất lực, huynh ấy sẽ chìa tay cứu giúp người, tránh cho người lún sâu... Trừ cha mẹ ra, huynh ấy là người tốt với con nhất, dẫu cả thiên hạ có bỏ mặc con, huynh ấy cũng vẫn sẽ bảo vệ con. Hơn nữa, huynh ấy toàn tâm toàn ý với con, con sẽ mãi mãi không phải lo lắng huynh ấy phản bội mình, làm hại mình, lạnh nhạt với mình vì người con gái khác."

Hoàng hậu hơi trố mắt, có phần xúc động, song cũng chỉ vụt thoắt trong một chớp mắt, bà nhanh chóng khôi phục vẻ mặt cao nhã, rèm mi buông hờ như có điều đăm chiêu, cũng không nói thêm gì nữa.

Sắc mặt công chúa dần hòa hoãn, dịu dàng nhìn ta, lát sau, lại quay về phía kim thượng, chậm rãi nói: "Cha nói con quyến luyến Hoài Cát, đúng, con thừa nhận, con quả thật quyến luyến huynh ấy, như bão táp quyến luyến nóc nhà thôn quê, như lữ khách quyến luyến núi thẳm chân trời. Đối mặt với số mệnh cha an bài, con đã từng mấy lần muốn chết, sở dĩ còn có thể sống được là bởi mỗi lần ngoảnh đầu nhìn ra sau đều có thể thấy huynh ấy đứng đó... Đối với con, đáng sợ nhất không phải cái chết mà là dai dẳng sống mòn mà chẳng thể gặp lại huynh ấy."


3. Gác giữa

Lời công chúa rất có hiệu quả, sau đó đế hậu tạm không nhắc đến chuyện điều ta đi nữa. Ta nghĩ công chúa thông minh hơn ta tưởng rất nhiều, nàng cố ý vô tình chạm đến nỗi đau ngầm đằng sau phòng tuyến kiên cố của đế hậu, khiến họ cảm động lây, cũng làm tâm ý mình muốn truyền đạt thuận lợi thâm nhập vào nội tâm phụ mẫu. Dưới vỏ bọc ngây thơ hồn nhiên và ngôn hành vô kỵ hiện tại, kỳ thực nàng vẫn luôn mở to tuệ nhãn, bình tĩnh quan sát nhân tình ấm lạnh, thế sự biến thiên quanh mình.

Chỉ cần nàng muốn, hẳn nàng có thể xử lý thích đáng mọi mối quan hệ, không để mình sa vào khốn cảnh, có điều, nàng cũng luôn rất kiêu ngạo, kiêu ngạo đến không chịu nhân nhượng bất kỳ chuyện gì trái với tâm ý, nhưng đây chẳng phải một thời đại cho phép nữ tử buông thả cõi lòng, dẫu là công chúa cũng không ngoại lệ, tuân theo nguyên tắc mình không phụ mình chung quy sẽ chẳng tránh khỏi vỡ đầu chảy máu. Dù cho ta cẩn thận từng li từng tí bảo vệ nàng mỗi ngày, vẫn không thể nào giúp nàng tránh khỏi tổn thương.

Tuy kim thượng đã quyết định để ta tiếp tục ở lại bên công chúa, song điều đó không có nghĩa ngài từ bỏ cố gắng cải thiện quan hệ phu thê giữa công chúa và phò mã, huống hồ còn có một đám ngôn quan đang theo dõi gắt gao chuyện khuê các của nàng, bức ép ngài tìm cách giải quyết.

Một tháng sau, kim thượng liên tục triệu Dương phu nhân, Lý Vĩ, Vận Quả Nhi cùng nhập nội đô tri Sử Chí Thông, quan chủ quản phủ công chúa hiện tại, vào cung thương nghị. Ta đoán hẳn là ngài muốn cùng họ tìm một phương pháp làm công chúa tiếp nhận phò mã, để nàng xa rời ta một cách tự nhiên. Suy đoán này đã được chứng minh đại khái không sai ngay sau đó, nhưng phương án họ áp dụng lại không phải cái ta có thể nghĩ ra.

Một đêm nọ, ta đột ngột tỉnh giấc vô cớ, ngồi dậy tựa vào đầu giường một chốc, lòng vẫn không dứt nôn nao. Đúng lúc tâm thần đang không yên, một tiếng hét của chợt vọng lại từ gác giữa nơi công chúa ở.

Đêm khuya người lặng, tiếng hét nghe đặc biệt rõ ràng chói tai, đan xen trong đó là khủng hoảng và phẫn nộ cực độ, nữ tử kia lại liên tiếp hét thêm mấy tiếng, giọng vô cùng thảm thiết.

Ta nhận ra đó là giọng công chúa, nhất thời như bị sét đánh, hoảng hốt lo âu, toàn thân không kìm được run lên. Vớ áo khoác vào, ta lảo đảo tìm đường ra cửa, tức tốc chạy về phía gác giữa.

Giác giữa đã sớm đèn đuốc sáng choang, mười mấy thị nữ và tiểu hoàng môn tụ tập trong ngoài buồng ngủ của công chúa, chạy tới chạy lui, tay chân luống cuống, có người miệng kêu "Công chúa" hoặc "Đô úy", có người gọi đồng bạn làm việc, có người không biết nhìn thấy cái gì, cũng đang kinh hoàng la hét, hiện trường ồn ào ầm ĩ, hỗn loạn tan tác.

Thấy ta tới, họ mới tạm lắng tiếng, đồng thời tự giác nhường đường, mời ta vào trong.

Công chúa đầu tóc rối bù, trừng trừng căm phẫn nhìn về phía trước, tay nắm một cây trâm ngọc, đầu nhọn cây trâm chĩa ra ngoài, được nàng dùng làm vũ khí, trên đó có vết máu đỏ tươi.

Ta dõi mắt theo hướng nàng nhìn, phát hiện ra tiêu điểm nàng trừng là Lý Vĩ. Lý Vĩ ngơ ngác đứng ngay phía trước nàng, cổ và vai có nhiều dấu vết bị trâm đâm thương, còn có máu không ngừng rỉ ra.

Họ đều y quan bất chỉnh.

Nếu không phải có bốn thị nữ ra sức ngăn trở, công chúa nhất định sẽ còn nhào tới hung hãn đâm Lý Vĩ, đôi mắt nàng bị lửa giận nung đỏ như muốn nhỏ máu.

Ta lờ mờ đoán ra trạng huống lúc này, song không kịp nghĩ kĩ, vội xông tới bên cạnh công chúa, đoạt lấy trâm ngọc trong tay nàng.

Công chúa vẫn đang trong trạng thái cuồng nộ, liều mạng phản kháng, đại khái căn bản là không ý thức được người đến gần mình là ta, lại vung trâm lên đâm ta. Ta vừa chống đỡ vừa liên thanh gọi nàng, rốt cuộc nàng cũng có phản ứng, động tác chậm lại, ta mới rút cây trâm nhuốm máu kia ra khỏi tay nàng.

"Hoài Cát," Nàng kéo tay áo ta, đôi mắt đỏ ngầu ra hiệu về phía Lý Vĩ, "Giết hắn!"

Ta xoay người ôm hờ lấy nàng, đồng thời mượn cơ hội ngăn trở tầm mắt nàng nhìn Lý Vĩ, vỗ nhẹ lưng nàng ôn tồn trấn an, lại phóng mắt ra hiệu với hai thị nữ sau lưng công chúa. Thị nữ hiểu ý, đi vòng tới bên cạnh Lý Vĩ, đỡ hắn ra cửa.

Thần trí công chúa vẫn chưa hoàn toàn tỉnh táo, miệng lẩm bẩm đúng một câu: "Giết hắn, giết hắn..." Dưới sự trấn an của ta, cơn giận của nàng mới dần nguôi bớt, song bi thương lại chợt trào dâng trong lòng, vùi đầu vào ngực ta, gào khóc tức tưởi như một đứa trẻ vừa phải chịu hết tủi nhục.

Ta choàng thêm áo cho nàng, ngồi cùng nàng hồi lâu, mãi đến khi nàng khóc mệt, dần buồn ngủ. Thấy rèm mi nàng rũ thấp, dáng vẻ gà gật, ta gọi thị nữ lại, bảo họ đỡ công chúa vào màn nghỉ ngơi. Nhưng thị nữ vừa lại gần, công chúa lập tức tỉnh lại, nàng hoảng loạn đứng bật dậy, đẩy thị nữ ra, quyết liệt nói mình không muốn ngủ ở đây rồi tự mình lao ra ngoài. Ta đuổi theo, thấy nàng chỉ đâm đầu chạy bừa, hoàn toàn không có phương hướng cụ thể, bèn vội vàng tiến lên, kéo nàng trở lại sảnh gác giữa, nàng bèn dừng bước trong sảnh, nói thế nào cũng không chịu trở lại buồng ngủ.

Ta đành để nàng ở lại sảnh, nàng cũng kiên cường mở mắt, khăng khăng không chịu ngủ, ta bèn phân phó thị nữ hầu nàng rửa mặt chải đầu, mình thì đứng dậy, định ra ngoài tránh, nhưng nàng lại hoảng sợ luôn miệng gọi ta, hỏi ta đầy lo lắng: "Hoài Cát, huynh muốn đi đâu?"

Dáng vẻ nàng làm ta trông mà xót lòng, bèn ngồi trở lại bên cạnh nàng, mỉm cười với nàng, nói: "Thần không đi đâu hết, chỉ là ngồi lâu nên đứng lên giãn tay giãn chân chút thôi."

Trời sáng, Sử Chí Thông và Dương phu nhân lần lượt tới thăm, công chúa đều cự tuyệt không gặp. Lát sau, Nhậm Thủ Trung từ trong cung tới, nói quan gia ban thưởng lễ vật cho công chúa và phò mã. Lễ vật nhất nhất trình lên, vậy mà lại là gấm uyên ương, túi hợp hoan, chỉ vàng bóng màu dùng để trang trí màn trướng trong hôn lễ.

"Quan gia nói, phò mã và công chúa là phu thê, vốn không cần phân gác ở, hôm qua đã dặn phò mã chuyển vào gác giữa. Hôm nay đặc biệt ban thưởng, tỏ ý chúc mừng." Nhậm Thủ Trung cười nói với công chúa.

Thấy ông ta còn chưa biết chuyện xảy ra đêm qua, ta lo lắng quan sát công chúa, ánh mắt công chúa trôi nổi, từ từ quét qua gấm hoa vàng bạc trước mặt, tạm thời chưa có phản ứng gì khác thường. Nhưng lúc bóng dáng Lý Vĩ xuất hiện ở cửa gác, nàng nhất thời hít thở dồn dập, bưng một mâm đựng đầy chỉ vàng bóng màu lên, ném vào mặt vào đầu Lý Vĩ.

"Cút! Đừng đến gần ta!" Nàng phẫn nộ quát Lý Vĩ, lại mất khống chế cầm tất cả đồ vật có thể cầm được bên mình ném về phía Lý Vĩ, không ngừng lặp đi lặp lại "Đừng đến gần ta", dòng lệ mới tuôn ra lại bắt đầu chảy xuống dọc theo gò má.

Nhậm Thủ Trung nhìn mà ngây người, là ta ngăn cản đợt công kích tiếp theo của công chúa vào Lý Vĩ, sau lưng Lý Vĩ cũng có người đứng ra chắn trước mặt hắn trong khi hắn hãy còn đang đờ đẫn bất động.

Đó là Thôi Bạch, Gia Khánh Tử cũng bất ngờ xuất hiện, đi vào trong sảnh, mỉm cười gọi khẽ: "Công chúa."

Đó là lần đầu họ tới thăm sau lễ lại mặt, xem ra Lý Vĩ tới chuyến này vốn là để dẫn họ tới gặp công chúa.

Trông thấy thị nữ thân cận, cảm xúc của công chúa tạm thời lắng lại, nương theo Gia Khánh Tử dìu đỡ ngồi xuống, nhưng vẻ mặt vẫn hốt hoảng, ánh mắt chưa ngơi lửa giận vẫn đang bắn về hướng Lý Vĩ.

Nhậm Thủ Trung rảo bước ra cửa, kéo theo Lý Vĩ thoát khỏi tầm mắt công chúa.

Gia Khánh Tử cũng rất hiểu chuyện, tươi cười ân cần hỏi thăm công chúa, không nhắc một chữ nào tới chuyện mới rồi. Công chúa thỉnh thoảng mở miệng hỏi nó cuộc sống tân hôn, nó cũng nói mọi việc đều tốt đẹp, kể với công chúa vài chuyện thú vị trong sinh hoạt, còn lấy ra một con rối nối dây mặc y phục sặc sỡ cho công chúa xem, cười nói: "Em thấy công chúa thích con rối nên xin Thôi lang làm cho một con. Con lần trước công chúa giữ lại là thư sinh, con này là mỹ nhân, vừa vặn thành một đôi đấy."

Công chúa nhận lấy ngắm nghía, khóe miệng hé nụ cười nhàn nhạt, nhấc tay cầm lên điều khiển con rối cử động vài cái, lại hỏi ta: "Hoài Cát, con rối này có đẹp không?"

Ta cũng cười với nàng, đáp "Đẹp". Nàng lại lắc đầu, nói: "Ta muốn con kiểu khác cơ."

Gia Khánh Tử lập tức cười xòa: "Công chúa muốn kiểu nào cứ nói với Thôi lang, chàng nhất định sẽ làm cho công chúa."

Công chúa khẽ gật đầu, cười với Thôi Bạch.

Giữa chừng ta không nói gì nhiều với Thôi Bạch, gã cũng một mực im lặng, vô cùng chuyên chú quan sát chúng ta có phần chật vật sau trận gió bão ban nãy.

Gia Khánh Tử ngồi cùng công chúa hồi lâu, thừa dịp Thôi Bạch đi bái phỏng Lý Vĩ, ta đứng dậy theo hắn, đưa hắn ra cửa gác giữa.

Đưa mắt nhìn Thôi Bạch đi xa rồi, ta cũng không vòng về gác ngay mà chuyển hướng đi tới chỗ ở của Dương phu nhân.

Ta nghĩ chuyện đêm qua nhất định là chủ ý của bà ta.

Nhưng tới nửa đường, lại có người gọi ta từ đằng sau, quay đầu nhìn, là Vận Quả Nhi nay đã là thiếp thất của phò mã.

Ả chậm rãi đi tới trước mặt chặn đường ta, hỏi ta: "Lương tiên sinh định đi đâu vậy?"

Ta nói thẳng: "Đi tìm quốc cữu phu nhân, ta có việc muốn hỏi bà ấy."

"Là chuyện đô úy và công chúa đêm qua phải không?" Vận Quả Nhi nói, "Tiên sinh khỏi đi, chuyện này không liên quan gì đến quốc cữu phu nhân hết."

Ta nhíu mày liếc ả hỏi dò. Ả bình tĩnh đón lấy ánh mắt ta, bình thản nói: "Đêm qua, là tôi khuyên đô úy vào gác giữa."


4. Thiếp thất

Ngữ điệu ôn hòa của ả hờ hững khác thường, làm ta có cảm giác như đang nghe một bản án thư lại ghi chép xong trần thuật với phán quan: "Gần đây quan gia thường triệu quốc cữu phu nhân và tôi tới thương lượng chuyện công chúa, nghe nói công chúa từng ngủ cùng đô úy, bèn bảo bọn tôi nói nhiều lời hay về đô úy, để sau này công chúa tiếp tục làm phu thê thật với đô úy. Nhưng bọn tôi đều biết công chúa chán ghét đô úy, ánh mắt nhìn chàng như một cái bánh hấp mọc mốc vậy, ai nói tốt cũng không thể khiến công chúa hồi tâm chuyển ý. Thế nên, tôi đề nghị quan gia dứt khoát hạ lệnh bảo đô úy chuyển vào gác giữa, người ngoài nói tốt mười câu chẳng bằng một đêm vợ chồng chung giường..."

"Cô biết rõ công chúa chán ghét đô úy mà còn bảo quan gia hạ mệnh lệnh rành rành đi ngược lại với tâm ý của người?" Ta nhìn biểu cảm không gợn sóng mảy may của Vận Quả Nhi, thầm kinh ngạc bắt đầu từ khi nào mà gương mặt quen thuộc này lại trở nên khó ưa đến thế.

"Thứ cho tôi nói thẳng, Lương tiên sinh học nhiều hiểu rộng, nhưng có một số chuyện của nữ nhân chưa chắc anh đã biết." Nói xong câu này, đại khái là để tránh làm ta lúng túng quá mức, ả dời mắt nhìn sang tường hoa mái tầng của gác giữa rồi mới nói tiếp, "Rất nhiều mâu thuẫn không đâu giữa phu thê đều được hóa giải trong khuê phòng đêm khuya, trước đây Vân nương cũng từng nói với tôi, vợ chồng "đầu giường đánh nhau cuối giường hòa". Cá nước vui vầy là một cách hay để bù đắp cho rạn nứt giữa vợ chồng, công chúa chung chăn gối với đô úy vài lần rồi, thái độ với đô úy chắc chắn sẽ cải thiện."

Ả bàn về chủ đề riêng tư nhường vậy mà thái độ lại thản nhiên đến thế, làm ta để lộ vài phần mất tự nhiên. Hồi lâu sau, ta mới mở miệng: "Cô và ta đều đã thấy được kết quả sau lần đầu tiên công chúa mời đô úy ngủ lại rồi, khoảng cách giữa người và đô úy chẳng những không được kéo gần mà còn ngày một cách xa. Sao cô lại ra hạ sách bậc này, làm đô úy chọc giận công chúa?"

Vận Quả Nhi nói: "Lần đầu tiên của đàn bà ngoài đau ra thì còn có thể có cảm giác gì khác chứ? Nhưng về sau sẽ không như vậy nữa. Đô úy cũng nói công chúa sẽ không chấp nhận chàng, tôi khuyên chàng cứng rắn hơn với công chúa, chàng rất kinh ngạc, nói như vậy có thể công chúa sẽ hận chàng, tôi nói với chàng: 'Dù sao công chúa cũng đã hận chàng sẵn rồi. Coi như đặt cược một lần nữa đi, nếu thắng, từ rày công chúa sẽ hòa thuận chung sống với chàng, thua cũng chẳng có kết quả gì xấu hơn, cùng lắm thì công chúa lại hận chàng tiếp thôi.'"

Ta lạnh lùng nhìn ả: "Hiện giờ cô đã thấy kết quả xấu hơn rồi đó."

"Là đô úy thiếu quyết đoán hoặc làm chưa đủ cứng rắn mà thôi, đêm qua sau khi vào gác giữa cứ do do dự dự mãi, thành ra đánh thức công chúa, để người quấy nháo." Ả chuyển mắt về nhìn ta, nói: "Hôm nay công chúa như vậy, tiên sinh cũng khó chối trách nhiệm. Anh bảo vệ người quá kĩ, không để người chịu chút xíu thương tổn nào, nhưng có một vài đau nhức nhất định sẽ phải trải qua trong sinh mệnh, giống như học đi bị ngã là điều không thể tránh khỏi vậy. Nếu ngay từ đầu sau khi hạ giáng, người đã ngủ chung với đô úy thì tình hình đã chẳng khó giải quyết như bây giờ."

Ta không khỏi kinh hãi, đánh giá ả như quan sát một người xa lạ. Ta biết ả mười mấy năm mà hoàn toàn không phát hiện ra đầu óc ả sáng suốt và nhạy bén thấu tỏ đến thế. Ả đã nắm chắc được vận mệnh của mình đúng theo tâm ý, mà điều ta cần suy nghĩ bây giờ là thái độ của ả với công chúa, trong tình huống chung chồng, trù tính này của ả là thật lòng muốn hàn gắn quan hệ giữa công chúa và phò mã, hay là muốn dùng phương thức làm tổn thương công chúa để khiến vợ chồng họ hoàn toàn đoạn tuyệt.

Hai hôm sau đó, cảm xúc của công chúa vẫn chưa ổn định, hễ nhìn thấy Lý Vĩ, thậm chí là chỉ nghe đến cái tên Lý Vĩ thôi cũng sẽ nổi giận, khóc mắng, ném đồ, chạy loạn như phát điên cũng có khả năng phát sinh. Có một lần, vô tình nhìn thấy một chiếc gối sứ có hình uyên ương nghịch nước kim thượng ban cho nàng và Lý Vĩ bận trước, lập tức giơ lên ném vỡ, sau đó nhặt một mảnh sứ vụn lên đâm vào cổ mình, may mà lúc ấy ta ở ngay bên cạnh nàng kịp thời ngăn trở mới không tạo thành thảm kịch.

Hơn nữa, từ đấy nàng từ chối ngủ trong buồng phòng gác giữa, chỉ bằng lòng ngồi ở sảnh, ngày đêm không ngủ. Ta khuyên nàng vào trong nghỉ ngơi, nàng kiên quyết lắc đầu: "Sẽ có kẻ gian đi vào." Ta nói đã dặn dò chúng thị nữ canh chừng cẩn thận, sẽ không xảy ra bất kỳ bất trắc gì nữa, nàng vẫn không chịu: "Không tin chúng được."

Đám thị nữ ấy cũng thật sự vô tội, đêm đó Vận Quả Nhi dẫn Lý Vĩ vào gác giữa sau khi công chúa đã ngủ, tuyên bố mệnh lệnh bảo Lý Vĩ dọn vào ngủ cùng công chúa của kim thượng, bọn thị nữ không dám chống lại, đành để Lý Vĩ vào phòng ngủ của công chúa, nào ngờ chuyện chẳng êm xuôi, cũng thiệt thòi chúng nó đánh mất tín nhiệm của công chúa.

Qua hai ngày, công chúa đã hốc hác không còn ra hình người. Sử Chí Thông không dám giấu giếm, đành vào cung thuật lại chuyện xảy ra ở phủ công chúa cho đế hậu và Miêu hiền phi, Miêu hiền phi lập tức sai Vương Vụ Tư đi đón công chúa vào cung ở mấy ngày. Bà trông thấy thảm trạng của con gái, ngoài đau lòng ra còn giận dữ khôn nguôi, trút hết lên Sử Chí Thông, tố cáo với kim thượng y quản lý phủ công chúa không tròn bổn phận, để công chúa bị phò mã và thiếp thất của hắn ức hiếp. Kim thượng bèn cách chức Sử Chí Thông, liên đới tước cả cấp quan nhập nội đô tri của y.

Kim thượng phải lặp đi lặp lại cam kết sẽ không bắt Lý Vĩ và công chúa ngủ chung phòng nữa, công chúa mới miễn cưỡng đồng ý trở về phủ công chúa. Hồi phủ cùng chúng ta còn có Vương Vụ Tư, được Miêu hiền phi tiến cử, y thành công trở thành nội thần chủ quản phủ công chúa tân nhiệm.

Có hai nguyên nhân Miêu hiền phi chọn y vào phủ công chúa: Thứ nhất, y làm việc trong gác Miêu hiền phi đã nhiều năm, nhìn công chúa lớn lên, vừa hiểu biết công chúa vừa trung thành với công chúa; thứ hai, đầu óc y linh hoạt, rất biết cách đối phó với thuộc hạ, nói theo lời Miêu hiền phi là "không quá hiền lành như Lương Toàn Nhất, cũng không quá nịnh nọt chỉ biết lấy lòng quan gia như Sử Chí Thông".

Vương Vụ Tư vừa nhậm chức đã ra oai phủ đầu với Vận Quả Nhi – giáng một cái bạt tai nặng nề lên mặt Vận Quả Nhi ngay khi ả tới nghênh tiếp, y trừng mắt nhìn ả, nghiêm giọng mắng nhiếc: "Tiện tì, lần sau còn không quản lý cái lòng gian giảo của bay cho tử tế thì cứ cẩn thận ta lấy kéo cắt phứt đi hộ bay đó!"

Sau đó, trong cái nhìn trân trối nghẹn họng của đám người Dương phu nhân, Lý Vĩ, y lại khôi phục vẻ mặt hiền hòa, tươi cười cơ hồ thân thiện gần gũi, chắp tay với Vận Quả Nhi: "Vận cô nương thứ tội, câu mới rồi là Miêu nương tử bảo tôi chuyển cáo cô, lão nô cũng chỉ là bất đắc dĩ, đắc tội rồi."

Vận Quả Nhi đỏ mắt bưng má, lạnh lùng quay đầu đi chỗ khác.

Vương Vụ Tư vẫn duy trì nụ cười thân thiện, tuyên bố hình phạt dành cho Vận Quả Nhi một cách lễ phép: "Tôi thấy khí sắc Vận cô nương không tốt, hẳn là do phải vất vả suốt mấy ngày nay, không bằng về phòng nghỉ ngơi ngay bây giờ, mọi chuyện trong phủ một tháng tới không cần phải lo liệu nữa, cứ an tâm tĩnh dưỡng cho tốt. Tôi cũng sẽ phái người phục dịch trước phòng cô nương, quyết không để kẻ không phận sự vào trong quấy rầy cô nương."

Dứt lời, y hơi hất đầu, lập tức có hai tiểu hoàng môn đi lên, kèm hai bên Vận Quả Nhi, mang ả về phòng giam lỏng. Từ đó thị nữ trong phủ công chúa ai nấy đều lo ngay ngáy, thấy Vương Vụ Tư là như chuột thấy mèo, lùi bước cúi đầu, thở cũng chẳng dám thở mạnh. Trước mặt y, đến Dương phu nhân xưa nay vẫn thường hống hách cũng khiêm tốn đi rất nhiều, nói chuyện với y rất khách khí, thậm chí còn ăn nói nhỏ nhẹ, hoàn toàn không thấy vẻ kiêu căng trước kia.

Sau khi vào phủ, Vương Vụ Tư đặc biệt chú ý động thái của Lý Vĩ, phái rất nhiều người giám thị hắn, bất kể chuyện lớn chuyện nhỏ kể từ lúc hắn thức dậy buổi sáng cho đến khi đi ngủ ban đêm đều sẽ có người báo cáo với Vương Vụ Tư. Ta nhìn trong mắt, không khỏi cảm thấy quá đáng, bèn nói riêng với y: "Tiên sinh bảo vệ công chúa đương nhiên là hết lòng, có điều để ý động tĩnh của phò mã đến mức ấy có phải là hơi thái quá không?"

Vương Vụ Tư thở dài: "Chúng ta cộng sự nhiều năm, tình hình của công chúa lại như vậy, ta cũng chẳng gạt cậu, lần này Miêu hiền phi bảo ta tới vốn có chút dặn dò. Người biết công chúa căm ghét phò mã, giữa hai người họ tuyệt không có khả năng hòa hảo, thế nên lệnh ta chú ý quan sát hành động của phò mã, nếu có chút gì không ổn, chẳng hạn như bất kính với công chúa hoặc mở miệng oán thán, đều phải báo lên quan gia, để ngày sau thỉnh cầu quan gia cho phép công chúa và phò mã ai đi đường nấy, để công chúa hồi cung ở lâu dài."

Ta không biết Lý Vĩ có nhận ra ý đồ của y hay không, dù sao biểu hiện của Lý Vĩ về sau quả thực không một sơ hở, mỗi ngày đều thỉnh an công chúa sáng tối, biết công chúa không muốn gặp mình, bèn bái lạy từ xa ngoài cửa gác, sau đó yên lặng rời đi, không hề quấy rầy nàng. Hắn kính cẩn với công chúa, cũng tôn trọng Vương Vụ Tư, thi thoảng phải đối mặt với Vương Vụ Tư cố ý khiêu khích cũng không có nửa câu oán hận. Hơn nữa trong tình huống Vận Quả Nhi bị giam lỏng, hắn cũng không để bất kỳ thị nữ nào hầu hạ, khiến Vương Vụ Tư muốn mượn cớ nói hắn "háo sắc" cũng không tìm được.

Vận Quả Nhi cũng rất ương bướng, sau khi bị cấm túc, ả bắt đầu tuyệt thực, không bao lâu sau đã thoi thóp yếu ớt, song Vương Vụ Tư cũng không có ý định thả ả ra ngoài, bất kể Lý Vĩ và Dương phu nhân có khẩn cầu thế nào, cuối cùng, là ta đập mở cửa phòng Vận Quả Nhi, đỡ ả ra, mang đến chỗ Dương phu nhân.

Dương phu nhân ngạc nhiên: "Lương tiên sinh thả nó ra có được Vương tiên sinh cho phép không?"

Ta lắc đầu, nói: "Không sao, tôi sẽ giải thích với ông ấy."

Lúc ta chuẩn bị rời đi, Vận Quả Nhi bỗng mở miệng xin ta dừng bước, tiếp đó thều thào hỏi: "Anh cũng cho rằng tôi muốn hại công chúa?"

Ta suy xét rồi nói thật: "Ta không xác định."

"Vậy mà anh còn cứu tôi?" Vận Quả Nhi hỏi.

Ta nói: "Ta không thể trơ mắt nhìn người khác chết đi trước mặt mình."

Ả cười bi ai: "Anh vẫn luôn như vậy..."

Chớp chớp cặp mắt khô khốc, ả xóa bỏ cảm xúc dư thừa, lại tìm về giọng điệu bình tĩnh: "Tôi muốn nghĩ cách để công chúa chấp nhận chồng mình, nếu không được thì để người mang thai, sinh hạ một đứa con cho chính mình cũng tốt, như vậy cuộc sống của người sau này sẽ có chỗ để gửi gắm, người cũng có lí do để sống tiếp...sau khi anh rời đi."

Lặng thinh hồi lâu, ả thoáng nhếch miệng: "Đừng nhìn tôi kinh ngạc như vậy. Chắc chắn anh cũng nghĩ đến rồi, sớm muộn gì anh và công chúa cũng sẽ bị chia tách."


5. Diễn trần

Ngày mười tám tháng Giêng năm Gia Hựu thứ bảy, kim thượng theo lệ ngự Tuyên Đức Môn xem đèn, cho vời hậu phi, công chúa, chư thần và mệnh phụ đi theo. Trước đó đám gián quan Tư Mã Quang, Dương Điền có nói năm ngoái các châu gặp nạn hạn hán, góa bụa cô độc, lang thang lưu lạc, mong kim thượng giảm vui chơi, ngừng hội xem đèn tết Nguyên Tiêu, thương xót con dân. Nhưng kim thượng vẫn quyết định không bỏ xem đèn. Sau khi lên Tuyên Đức Môn, ngài nhìn thần tử đi theo hai bên, nói ra một lí do: "Chính vì năm ngoái xảy ra nhiều chuyện không vui nên trẫm mới muộn mượn ngày hội này, cùng vui với vạn dân đã trải qua cực khổ, chứ không phải để thỏa mãn lạc thú du ngoạn của mình trẫm."

Trong mắt kim thượng, công chúa hiển nhiên cũng là một trong "vạn dân đã trải qua cực khổ". Những khi rỗi rảnh giữa khoảng thời gian xem đèn, ngài liên tục nhìn sang con gái, hỏi nàng có thích những lầu gác đèn đóm dưới chân không, công chúa đều mỉm cười nói thích, nhưng ánh mắt nhìn đèn đuốc hoa lệ lại tản mạn vô thần, trong hoàn cảnh cảm xúc tích tụ kéo dài, hạng mục thưởng ngoạn nàng thích nhất khi còn nhỏ đã chẳng còn khơi dậy được bao nhiêu hứng thú cho nàng nữa.

Trong lúc ngắm đèn, dưới cổng thành vẫn có các loại nghệ nhân hiến kĩ như trước, đến màn hai nữ tử biểu diễn đấu vật, công chúa nghiêng người nhìn xuống, hiếm hoi tỏ ra chú ý.

Những nữ đô vật ấy vẫn mặc trang phục ngắn tay không cổ, để lộ một khoảng lớn trước ngực, làm ta nhớ đến A Địch và Trương phu nhân kể chuyện Tư Mã Quang bày tỏ phẫn nộ với việc này. Biểu diễn đêm nay vẫn có tiết mục này, cũng chẳng biết là năm ấy y không tiến gián hay kim thượng nghe xong đã bỏ ngoài tai.

Đấu vật xong, người xem sôi nổi reo hò, kim thượng hạ lệnh ban cho nữ đô vật vài món đồ bạc lụa, Tư Mã học sĩ từ chỗ ngồi của bách quan bước ra, đi tới trước mặt kim thượng, khom người xá dài, vô cùng nghiêm túc tâu: "Bệ Hạ, Tuyên Đức Môn là biểu tượng của quốc gia..."

"Kim thượng có uy nghiêm thiên tử, dưới có bách tính muôn dân, hậu phi hầu bên, mệnh phụ quan vọng, mà lại để phụ nhân lõa lồ đùa giỡn trước mặt, tuyệt không phải lễ pháp trọng thể hiển minh tứ phương." Kim thượng không đợi y nói hết đã nghiêm mặt tiếp lời, rồi chợt phì cười, khoát tay, nói với Tư Mã Quang: "Năm nào khanh cũng nói vậy, trẫm thuộc cả rồi. Có điều nữ tử đấu vật là một trong những tiết mục truyền thống tết Nguyên Tiêu, thần dân Đông Kinh xem tiết mục này đã thành phong tục, mỗi lần đấu võ, người xem như nêm, trăm họ cũng đã quen với trang phục đấu vật, không cảm thấy có gì không ổn, khanh việc gì phải bắt buộc hủy bỏ?"

Tư Mã Quang nghiêm mặt nói: "Khổng Tử nói: trái lễ chớ xem. Nữ tử lõa lồ da thịt là hành động trơ trẽn vô liêm sỉ, có minh huấn của thánh nhân mà người xem vẫn nhìn chằm chằm, ấy là vô lễ. Đại Tống nhận lệnh do trời, Thái Tổ, Thái Tông thường răn dạy bề tôi, họa trên thiên hạ là do vô lễ mà ra. Vô lễ, thì hỏng phép tắc, suy phong tục, lâu dài thiên hạ tất vong, thần dân không biết thế nào là lễ nghi ắt sẽ khiến thiên hạ đại loạn, vận nước không bền, dẫn đến bại vong, nhân dân lầm than. Nay mà không cấm nữ tử diễn trần, làn gió dâm mị trong nước sẽ ngày càng thịnh, gây hậu quả xấu, bệ hạ không thể không phòng!"

Kim thượng ra chiều lắng nghe nghiêm túc, song vẻ mặt chẳng lấy gì làm quan tâm. Đợi Tư Mã Quang nói xong, ngài mỉm cười, cho y một câu trả lời lập lờ nước đôi: "Ý của khanh, trẫm đã biết. Mời khanh về hàng tiếp tục thưởng thức biểu diễn, chuyện này ngày sau lại bàn."

Tư Mã Quang lại không chịu thôi, bước lên trước hai bước, cao giọng nói với kim thượng: "Bệ hạ, chuyện này đã kéo dài hai năm, há có thể tiếp tục lần lữa không quyết? Quyết sách của bệ hạ phải lấy lý làm đầu, không dung trái lễ, đề cao thiện lành, trừ bỏ tệ hại, như vậy mới có thể trường kỳ bình an, khiến thiên hạ thần phục, muôn dân quy thuận." Lời nói đến đây, y lại nghiêm chỉnh bái lạy, quỳ gối trước mặt kim thượng, "Thần cả gan khẩn cầu bệ hạ lập tức hạ chỉ, ban hành pháp lệnh, nghiêm cấm hạn chế, để sau này phụ nhân không còn biểu diễn chốn đông người tụ tập trên phố nữa."

Kim thượng không vui, khẽ cau mày, song nhất thời cũng không lên tiếng cự tuyệt. Tư Mã Quang chờ một lát rồi lại lần nữa quỳ lạy, lặp lại thỉnh cầu của mình bằng giọng nói vang vọng khắp điện gác lầu cổng.

Kim thượng vẫn im lặng, những người còn lại cũng chẳng dám mở miệng, trong bầu không khí vi diệu ấy, đến nhạc công giáo phường cũng ngừng tấu nhạc, trên Tuyên Đức Lâu lặng ngắt như tờ, chỉ có tiếng nô đùa du ngoạn của thứ dân dưới lầu là hãy còn vọng tới liên miên không dứt.

Bỗng, công chúa dời vài bước về phía Tư Mã Quang, cách một lớp rèm châu nói với Tư Mã Quang đang quỳ dưới đất: "Tư Mã học sĩ, lúc ông can gián thường nhắc đến gia pháp tổ tông, hẳn là tin phục lời dạy bảo của Thái Tổ và Thái Tông hoàng đế lắm."

Nàng vừa xen lời, người ngồi bốn phía đều quay đầu nhìn công chúa. Cung quyến sau rèm trực tiếp đối thoại với thần tử là điều không hợp với lễ chế, huống chi trước mắt còn là một công chúa thường xuyên có dị động đang hỏi Tư Mã Quang nhiều lần chỉ trích nàng.

Kim thượng khoa tay, ra hiệu bảo công chúa lùi ra sau, nhưng công chúa chẳng nghe theo, ánh mắt vẫn cố định đậu trên Tư Mã Quang. Kim thượng lưỡng lự, sau cùng vẫn không ngăn cản.

Tư Mã Quang cũng rất kinh ngạc, nghiêng đầu nhìn về phương hướng công chúa, hoài nghi nom bóng người mơ hồ sau bức rèm che một chốc, y vẫn đáp lời: "Tất nhiên, Thái Tổ, Thái Tông cơ trí uy vũ, tự gánh thiên hạ, anh minh sáng suốt, quần thần nể phục."

Công chúa lại nói: "Nếu là vậy, chuyện phụ nhân đấu vật, Thái Tông cũng có minh huấn, sao Tư Mã học sĩ lại không lý tới?"

Tư Mã Quang ngạc nhiên: "Thái Tông hoàng đế luận về phụ nhân đấu vật khi nào?"

Công chúa ung dung đáp: "Năm xưa Thái Tông hoàng đế xem đèn Nguyên Tiêu, Phùng Chưởng cũng từng nói nữ tử lộ ngực làm suy đồi phong hóa, xin ngài hạ lệnh cấm nữ tử đấu vật. Thái Tông hoàng đế bèn hỏi Phùng Chửng: 'Mới rồi hai nữ tử kia tỷ thí, cuối cùng là ai thủ thắng?' Phùng Chửng không trả lời được, Thái Tông hoàng đế cả cười: 'Hôm nay ta xem một trận so tài đấu vật đặc sắc mà khanh lại chỉ thấy nữ tử diễn trần lộ ngực.' Bây giờ ta cũng muốn hỏi Tư Mã học sĩ, mới rồi trong hai vị đấu vật, người cuối cùng giành chiến thắng là ai?"

Tư Mã Quang đăm chiêu, lại chẳng thể đưa ra đáp án. Chung quanh bắt đầu lục tục phát ra tiếng phì cười kìm nén, khiến vị học sĩ không lâu trước đây còn lời lẽ hùng hồn lộ vẻ lúng túng.

Công chúa cười khẽ, nói tiếp: "Thái Tông hoàng đế lại nói với Phùng Chửng: 'Cái thấy là cái nghĩ. Tính người không đục, thân vốn tròn đầy, chỉ cần giữ vững tâm tính thanh tịnh, như vậy những thứ bề ngoài hư ảo há có thể gợi lên ý niệm dâm tà? Khanh lo lắng như thế là coi muôn dân thiên hạ đều thành tiểu nhân dâm tà.' Hôm nay Tư Mã học sĩ ra sức xin cấm tiệt phụ nhân đấu vật, chẳng lẽ cũng là không có lòng tin với thần dân Đại Tống, hay là nghi ngờ hiệu quả thánh thượng giáo hóa con dân?"

Đây không phải một câu hỏi dễ trả lời. Tư Mã Quang á khẩu, một lúc lâu sau mới cất tiếng, nhưng cũng không phải bẻ lại công chúa mà hỏi: "Tích này của Thái Tông hoàng đế có văn bản nào ghi lại chăng?"

"Đương nhiên có," Công chúa lập tức đáp, "Ngay trong 'Thái Tông thực lục', lẽ nào Tư Mã học sĩ chưa từng đọc?"

Tư Mã Quang thành thật trả lời: "Ta từng đọc 'Thái Tông thực lục' nhưng không nhớ là có chuyện này."

Công chúa nhoẻn miệng: "Vậy học sĩ trở về tra lại 'Thực lục' đi thôi."

Tư Mã Quang im lặng, lát sau, y quay sang kim thượng, bái lạy cáo lui. Kim thượng hỉ hả, gật đầu bằng lòng, lúc Tư Mã Quang đứng lên, có lẽ là xuất phát từ lòng tôn trọng dành cho học sĩ đại phu, ngài bổ sung thêm câu: "Tiểu nữ thất lễ, mong khanh chớ để bụng."

Câu này giúp Tư Mã Quang lập tức ý thức được thân phận của công chúa. Bước chân y thoáng khựng lại, khôi phục lại vẻ mặt trước đây, ánh mắt sáng quắc đâm về phía công chúa. Kim thượng hơi hãi, vội vàng giục y trở về vị trí cũ. Tư Mã Quang đứng lặng một lát, cuối cùng lựa chọn nhẫn nhịn, xoay phắt người, rảo bước trở lại hàng ngũ thần tử.

Biểu hiện của công chúa giành được sự tán dương nhất trí của cung quyến phía sau. Gần đây nàng cảm xúc thất thường, còn nổi điên với Lý Vĩ, trong cung thậm chí còn đồn đại nàng điên rồi, mà nay nàng đối thoại với Tư Mã Quang, giọng tuy có phần yếu ớt, song nội dung mạch lạc rõ ràng, có thể thấy nàng tư duy tỉ mỉ, so với vài ngày trước tựa như hai người khác nhau.

Cung quyến sôi nổi tiến lên ca tụng chuyện công chúa đẩy lùi Tư Mã Quang, hoàng hậu cũng mỉm cười với nàng, có ý khen ngợi, nhưng cũng không quên hỏi nàng: "Ban nãy Huy Nhu nói tích Thái Tông và Phùng Chửng có ghi lại trong 'Thái Tông thực lục', không biết là ở quyển nào?"

Công chúa xua tay cười đáp: "Chuyện này con bịa ra để gạt Tư Mã Quang đó. 'Thực lục' có cả trăm cuốn, chờ đến lúc y về lật xong, năm nay đã sớm qua rồi, chúng ta cũng xem đấu vật xong cả rồi."

Thân thể công chúa hôm nay yếu ớt, không đợi xem hết biểu diễn đã thấy mệt lả, sau khi bái biệt phụ mẫu thì xuống lầu trước, trở về cung nghỉ ngơi. Ta một đường đi theo, đi tới dưới lầu, chợt thấy một mệnh phụ cài trâm miện khoác khăn quàng rảo bước lại gần, gọi khẽ sau lưng nàng: "Công chúa."

Công chúa ngạc nhiên xoay người, quan sát người gọi mình.

Nữ tử ấy còn rất trẻ, trên miện cài bảy đóa trâm hoa, thân bận địch y thất đẳng, xem chừng là phu nhân của một vị quan tam phẩm. Cô cười thân thiện với chúng ta dưới ánh hoa đăng rạng rỡ, tựa như gặp lại cố nhân cách biệt đã lâu.

Mà chúng ta cũng nhanh chóng nhận ra cô – phu nhân của Phùng Kinh, Phú Nhược Trúc. Ánh mắt cô nhìn đôi ta ấm áp như nhìn bằng hữu, hiển nhiên đã xác định chúng ta chính là người quen biết trong Bạch Phàn Lâu năm xưa.

"Phú tỷ tỷ." Công chúa mỉm cười, không bị Nhược Chúc đột ngột lại gần dọa sợ, cũng không có ý né tránh, thản nhiên chào cô, coi như thừa nhận thân phận mình.

Nhược Trúc rất vui, hào hứng bước về phía trước hai bước cách công chúa gần hơn, nói với nàng: "Xin công chúa thứ cho Nhược Trúc lỗ mãng... Tôi chỉ muốn nói với công chúa là tôi cũng rất thích xem nữ tử đấu vật."

Cô là mệnh phụ tam phẩm, chỗ ngồi cách cung quyến chẳng quá xa, có thể đã trông thấy bóng dáng công chúa từ trước, lại nghe nàng nói chuyện với Tư Mã Quang, giọng nói phù hợp với trong ấn tượng, thế nên mới dám lại gần nhận mặt.

Nghe cô nói, công chúa không khỏi hớn hở, đối mắt cùng cô cười. Nhược Trúc chợt đặt một tấm khăn lụa trắng vào tay công chúa, nhỏ giọng: "Tư Mã tỷ phu của tôi là một cục gỗ gàn dở ngoan cố hết thuốc chữa, từ nhỏ tôi đã muốn trêu anh ấy mà đó giờ vẫn chưa có cơ hội. Có điều tôi biết thời còn trẻ anh ấy từng điền một bài từ, bây giờ nói ra quả thật không ai tin là anh ấy viết, hiện giờ anh ấy cũng rất hối hận, hễ nghe người ta nhắc đến bài từ ấy là vừa thẹn vừa giận, chỉ hận không thể tìm một cái lỗ chui vào. Công chúa không ngại thì hãy nhớ lấy, lần sau anh ấy còn lảm nhảm mấy đạo lý nào lễ nào nghĩa chết ngộp người ta ấy, công chúa cứ đem bài từ này ra chọc anh ấy xấu hổ!"

Chuyện giữa ta và công chúa đã sớm thành chủ đề lưu truyền giữa học sĩ đại phu, Nhược Trúc khẳng định cũng đã nghe đôi chút về lời Tư Mã Quang chỉ trích hai ta. Từ câu cuối cô nói, ta cảm nhận được có ý khác, bèn dời mắt nhìn cô, cùng lúc đó Nhược Trúc cũng ngẩng đầu, tầm mắt hai ta chạm nhau, cô nở nụ cười nhẹ với ta, ánh mắt hiền dịu không chút che giấu biểu đạt với ta lòng cảm thông và thấu hiểu của mình.

Lúc này, công chúa đang mở tấm khăn lụa Nhược Trúc đưa cho nàng ra, ta cũng nhìn lại, thấy trên đó viết một bài "Tây giang nguyệt", chữ viết đỏ thẫm, thoang thoảng hương tường vi, hẳn là Nhược Trúc viết tạm bằng cao phấn mang theo bên người: "Bồng bồng búi tóc mới vấn, nhàn nhạt phấn hoa điểm trang. Khói biếc sương châu lồng xiêm áo, phất phơ tơ lụa lung linh. Gặp nhau mà bằng chẳng gặp, hữu tình khác chi vô tình. Sênh ca dứt tiếng rượu mới tỉnh, sân sâu trăng tà lặng thinh."


6. Vò rượu

Công chúa phản kích Tư Mã Quang như vậy, người đứng xem cố nhiên sảng khoái, song tuyệt không thể nói là một hành động sáng suốt. Chờ Tư Mã Quang tra cứu "Thực lục" xong, ấn tượng của y với công chúa ắt sẽ có thêm vài nét mới: Mắt không quân thượng, không biết kính sợ. Một nữ tử tự ý bịa đặt lời nói của tổ tiên quân phụ, đối với người nặng hiếu nghĩa trọng lễ pháp như y, tuyệt đối là điều không thể dung thứ.

Ta nhiều lần khuyên công chúa đừng đối chọi gay gắt với Tư Mã học sĩ, càng không thế lấy bài từ Nhược Trúc cho nàng ra để kích thích y, công chúa chẳng ừ hử gì, nhưng nàng nhận bài từ cũng chẳng xem nhiều. Sau tết Nguyên Tiêu, tinh thần nàng vẫn luôn không tốt, lại không muốn trở về phủ công chúa, Miêu hiền phi bèn xin kim thượng giữ nàng lại trong cung. Ở trong cung nàng cũng chỉ ngày ngày đau yếu nằm trên giường, rất ít nói, trong vòng một tháng, không thấy nàng đề cập gì đến chủ đề liên quan tới Tư Mã Quang nữa.

Kim thượng cũng không tiếp tục tiết lộ với chúng ta bất kỳ lời can gián nào của ngôn quan, nhưng ta đoán đám người Tư Mã Quang nhất định sẽ có ý kiến mới về ngôn hành của công chúa và kim thượng, bởi mỗi lần ta thấy ngài, vẻ mặt ngài đều rất ủ dột, ánh mắt nhìn công chúa chất chứa lo âu, dáng vẻ ấy quả thật có thể dùng sầu khổ để hình dung.

Ngài mặt ủ mày chau còn bởi một nguyên nhân khác, cũng là một chuyện đám ngôn quan Tư Mã Quàng liên tục dâng sớ đề nghị ngài cân nhắc – lập trữ. Liên tiếp sinh hạ năm vị công chúa trong vòng ba năm hẳn là một đả kích không nhẹ đối với ngài. Gia Hựu năm thứ sáu, tể tướng Phú Bật vì để tang mẹ nên từ quan miễn chức, trước khi đi, ông đã dâng tấu lên kim thượng, đại ý là trời không chiếu cố kim thượng nên không cho con nối dõi, gắng khuyên ngài chọn tông thất làm trữ quân, nói "Chuyện sinh dục vốn là do trời, nếu ý trời chiều lòng kim thượng thì sự đã sớm thành. Gần đây nghe nói trong một năm sinh bốn công chúa, nếu ý trời chiều lòng bệ hạ thì trong đó đã có một hoàng tử, ý trời là vậy, bệ hạ nên tỉnh ngộ đi thôi."

Mặc dù kim thượng vẫn kiên định không lập trữ, song năm nay tuổi tác đã cao, ngài cũng chẳng còn quá nóng lòng với việc cầu con. Thường ngày ngoài tìm hoàng hậu và Miêu hiền phi trò chuyện ra thì cũng chỉ đến chỗ Thu Hòa thăm cô. Thu Hòa đau ốm triền miên, đã sớm gầy như que củi, chẳng còn sắc vóc như xưa, theo những gì thị nữ trong gác cô tiết lộ với Miêu hiền phi, kim thượng cũng chưa chắc là muốn cô hầu hạ, đa số thời gian chỉ để cô yên lặng ngồi cùng hoặc nằm bên cạnh cô nhắm mắt nghỉ ngơi.

Nỗi sầu khổ của kim thượng cũng ảnh hưởng đến Thu Hòa. Có lần ta đi thăm cô, thấy cô mắt đỏ sưng phù, rõ ràng là vừa khóc. Thấy ta vào trong, cô lập tức mỉm cười nghênh đón, gắng che giấu nước mắt mới rồi. Lúc chúng ta nói chuyện phiếm, thập nhất công chúa ngủ trưa tỉnh dậy, bắt đầu ọ ẹ khóc, Thu Hòa vội đi dỗ người, ta thừa dịp ấy hỏi đề cử quan Triệu Kế Sủng trong gác nguyên nhân Thu Hòa rơi lệ, Triệu Kế Sủng kể hôm nay quan gia lên triều trở về, có tới đây ngồi một lúc, nhưng không nói câu nào, ngẩn người thẫn thờ hồi lâu. Thu Hòa dè dặt hỏi ngài vì sao không vui, ngài nhìn cô, thở dài thườn thượt, nói: "Thu Hòa, tại sao con chúng ta lại không phải con trai nhỉ?"

Ta lập tức thấu hiểu cảm thụ của Thu Hòa. Kim thượng nói vậy có lẽ chỉ đơn thuần là cảm thán số mệnh không son, nhưng Thu Hòa tất sẽ tự trách, lại thêm một nút thắt trong lòng, cuộc sống về sau cũng buồn nhiều hơn vui.

"Hoài Cát, tôi có một tin tốt muốn báo với huynh." Thu Hòa bế thập nhất công chúa trở lại ngồi xuống trước mặt ta, mỉm cười nói, "Tôi lo quan gia sẽ nghe theo đề nghị của ngôn quan, một lần nữa chia tách huynh và công chúa nên hôm qua đã nói tới chuyện này với ngài, sau đó ngài cam kết với tôi, lần này, ngôn quan sẽ không đả động được tới ngài, ngài chắc chắn sẽ không đuổi huynh rời kinh nữa."

Ta không lấy gì làm đặc biệt mừng rỡ, chỉ nói lời cảm ơn tự đáy lòng với Thu Hòa. Vì chuyện của ta và công chúa, chẳng biết cô đã tốn bao tâm tư, mất bao công sức khuyên giải kim thượng.

"Huynh không vui à?" Thu Hòa thấy vẻ mặt ta khác thường, dần thu lại nụ cười, nhưng rất nhanh sau đó lại tỏ vẻ vui mừng mang ý khích lệ với ta, "Đừng lo, không sao đâu, sau này hai người sẽ được sống cuộc sống bình an hạnh phúc, không ai có thể chia rẽ hai người."

Ta cũng cười với cô, biểu thị tiếp nhận lời chúc lành thiện ý của cô, nhưng không nói cho cô hay rằng, trong không gian chẳng cách nào trốn thoát mà chúng ta đang ở, cuộc sống sẽ không còn bình an hạnh phúc nữa, chỉ có yên ổn tạm thời, hoặc ngắn hoặc dài, giống như cô vậy.

Ở lâu một tháng trong cung, công chúa dần quen với cuộc sống đơn thân tận lực kiếm tìm này, cũng tận lực quên đi mình còn có một người chồng ngoài cung, thế nên, khi Lý Vĩ tới đón nàng về, như thể bị nỗi sợ hãi trước kia một lần nữa đánh úp cõi lòng, nàng hét lên một tiếng hoảng loạn, vừa lùi ra sau vừa sai người chung quanh đuổi Lý Vĩ đi.

Miêu hiền phi vội vàng bảo Vương Vụ Tư mời Lý Vĩ ra ngoài. Hôm sau, trong bữa tiệc nhà trên Thăng Bình Lâu, kim thượng giải thích mục đích đến của Lý Vĩ với công chúa: "Đô úy nói hai ngày nữa là tiết Hoa Triêu, trong vườn nó hoa xuân đều đã khoe sắc, lại vừa tậu thêm vài giống hoa trong kinh ít thấy, nghĩ hẳn là đẹp hơn những nơi khác, mà công chúa lại thích kỳ hoa dị thảo xưa nay, nếu không ngại thì về xem thử xem... Bây giờ nó đang ở dưới lầu, nếu con đồng ý, cha sẽ bảo nó lên cho hai đứa chuyện trò, đêm nay để nó nghỉ lại trong cung, ngày mai cùng nhau trở về..."

Công chúa không nói không rằng thình lình đứng lên, lao thẳng về phía cột trụ sơn son trong lầu, đâm đầu vào cột.

Chuyện xảy ra quá đột ngột, không ai kịp giữ nàng, cũng may cột là cột gỗ, không quá cứng rắn, mà công chúa thân yếu sức kém, lực đâm không đủ dẫn đến chết người, mặc dù vậy, nàng vẫn bị rách trán chảy máu, tức khắc ngã xuống đất ngất đi.

Lúc công chúa tỉnh lại trong gác, người đầu tiên trông thấy ngoài ta và hiền phi ra thì còn có cha nàng. Còn Lý Vĩ thì đã bị Miêu hiền phi đau khổ khôn nguôi giận dữ đuổi khỏi cung sau khi nàng đâm cột.

Công chúa mở mắt, mơ mơ màng màng đưa mắt nhìn cảnh vật quanh mình rồi cất lời nói với kim thượng câu đầu tiên: "Con không muốn gặp hắn."

Kim thượng đưa tay áo lau hốc mắt, buồn bã hỏi nàng: "Cha an bài mối hôn sự này cho con thật sự đã khiến con đau khổ vậy sao?"

Sóng mắt lềnh bềnh của công chúa lượn vòng trên mặt kim thượng, tìm kiếm ánh mắt phụ thân, một lúc lâu sau, nàng chậm rãi nói với ngài: "Con có thể tuân lệnh lấy hắn, nhưng không thể tuân lệnh yêu hắn."

Nàng khó khăn quay đầu vào trong dưới ánh nhìn trân trân của kim thượng, trong đôi mắt khép lại chảy xuống nước mắt: "Xin lỗi, cha."

Kim thượng im lặng đứng dậy, lê bước chân nặng nề rời khỏi phòng bệnh của con gái.

Công chúa có hiện tượng phát sốt, ta và Miêu hiền phi không dám tự ý rời đi, một mực trông nom bên nàng, đêm xuống, hiền phi ngủ lại trong phòng công chúa, còn ta thì ngồi trong sảnh cách vách chợp mắt. Nửa đêm về sau, công chúa bỗng tỉnh giấc, gào khóc gọi "Tỷ tỷ" và "Hoài Cát". Chúng ta lập tức chạy tới trước giường nàng, Miêu hiền phi ôm nàng vỗ về, luôn miệng trấn an, công chúa mới từ từ bình tĩnh lại.

"Tỷ tỷ, con vẫn ở trong cung ạ?" Nàng thút thít hỏi mẫu thân.

Miêu hiền phi cho nàng câu trả lời khẳng định, nàng tựa vào lòng mẹ, bắt đầu kể lại giấc mộng vừa mơ: "Hình như con nhìn thấy Lý Vĩ lại vào phòng con... Hắn vén chăn con lên, đôi tay ghê tởm ấy táy máy trên người con..."

Không nói tiếp được nữa, nàng khóc không thành tiếng. Miêu hiền phi ôm siết lấy nàng, một lần nữa liên thanh an ủi, nhưng bản thân cũng chẳng kìm được nước mắt lã chã rơi xuống.

Công chúa khóc một hồi, lại thê lương nói: "Con không muốn ở với hắn... Chỉ nghĩ đến dáng vẻ hắn há mồm hổn hển sờ vào người con thôi, con đã hận không thể lập tức chết đi rồi!"

"Không!" Miêu hiền phi nâng cằm lên khỏi vai con gái, gương mặt quay về phía nguồn sáng, trong đôi mắt đẫm lệ có hai ngọn lửa lạnh băng bập bùng theo ánh nến, "Tỷ tỷ có phải liều cái mạng này cũng sẽ bảo vệ con, sẽ không để thằng nghiệt chướng kia có cơ hội ức hiếp con nữa."

Trong khoảng thời gian công chúa ốm bệnh, Miêu hiền phi bắt đầu thực hiện kế hoạch cứu nàng. Đầu tiên là khóc lóc cầu xin kim thượng cho công chúa và Lý Vĩ đoạn tuyệt, để công chúa lấy người khác, nhưng kim thượng sầu bạc tóc chỉ rền rĩ than thở: "Từ khi khai quốc đến nay, công chúa đều chỉ cưới một người, chưa từng có ai đoạn tuyệt với chồng đi tái giá."

Miêu hiền phi bàn bạc với tỷ muội tốt của mình Du sung nghi, ý tưởng của sung nghi cũng không khác bà bao nhiêu: "Từ sau khi công chúa bị thương, thái độ của quan gia rõ ràng đã nới lỏng, không còn một mực bênh vực Lý Vĩ nữa. Hiện giờ hẳn ngài đang sợ vô cớ ban lệnh đoạn tuyệt sẽ bị người ta đặt điều, làm ngôn quan lại có cớ khua môi múa mép, nhưng nếu phò mã có khuyết điểm thì ngài cũng có lý do để đem ra nói với ngôn quan chuyện đoạn tuyệt rồi."

Họ hết lần này đến lần khác hỏi tỉ mỉ ta và Vương Vụ Tư bình thường Lý Vĩ có khuyết điểm gì không, ta không kể xấu Lý Vĩ một câu nào, mà Vương Vụ Tư cũng bày tỏ Lý Vĩ vẫn luôn cẩn thận, căn bản là chẳng có cái thóp nào để bắt – mà chuyện như xông vào khuê các của công chúa thì lại không thể lấy làm chứng cứ phạm tội trình bày với ngôn quan.

Hai ngày sau, Miêu, Du hai vị nương tử vẫn liên tiếp thương lượng với Vương Vụ Tư chuyện của công chúa, muốn tìm một biện pháp giải quyết vấn đề, còn ta thì không tham gia vào cuộc thảo luận của họ nữa, chỉ dành cả ngày chăm sóc cho công chúa.

Trong tình huống chẳng biết trước được ngày mai, ta chỉ có thể nắm chắc hôm nay. Nhìn dáng vẻ công chúa mê mệt, ta thường xuyên nghĩ, không biết hôm sau khi mặt trời mọc, ta có còn ở bên nàng chăng.

Tiết Hoa Triêu, buổi chiều, hai vị nương tử mật nghị một phen với Vương Vụ Tư, sau đó đi Phúc Ninh Điện gặp kim thượng, hồi lâu chưa về. Ta hầu công chúa dùng bữa uống thuốc, lại nhìn nàng nhắm mắt thiếp đi rồi mới rời khỏi phòng nàng, đi ra cửa gác trông về phía Phúc Ninh Điện đằng xa, suy đoán xem hai vị nương tử có thể đưa ra đề nghị gì với kim thượng.

Sau đó, trong Phúc Ninh Điện có người lại đây, cũng không phải Miêu hiền phi hay Du sung nghi mà là đô tri theo hầu kim thượng Đặng Bảo Cát.

"Công chúa đâu?" Y bước đi vội vã, nhác thấy ta lập tức hỏi, giọng điệu mang vẻ lo âu bất thường.

"Công chúa uống thuốc xong đã đi nghỉ rồi ạ." Ta trả lời, lại hỏi ông: "Đô tri có việc cần gặp công chúa?"

Y hơi do dự, song rất nhanh sau đó vẫn kể cho ta biết duyên cớ trong đây: "Hôm nay Miêu nương tử và Du nương tử đi gặp quan gia, nói với ngài, công chúa và phò mã đã rạn nứt đến nhường này, tuyệt không có khả năng hòa hảo, tiếp tục để công chúa và phò mã sống chung dưới một mái nhà, nhất định người sẽ lại lần nữa tìm đến cái chết, mà công chúa quốc triều lại không có tiền lệ ly dị với chồng, muốn công chúa thoát khỏi tình trạng trước mắt, cũng chỉ còn cách làm Lý Vĩ biến mất."

Ta cả kinh: "Ý họ là sao?"

Đặng đô tri thở dài: "Quan gia cũng phản ứng như cậu. Sau đó Vương Vụ Tư tiến lên, nói: 'Chỉ cần quan gia hạ chỉ, Vụ Tư có thể dùng một vò rượu kết thúc chuyện này.'"

Ý y là ban rượu độc cho Lý Vĩ rồi tuyên bố với bên ngoài Lý Vĩ chết vì bạo bệnh. Đó là một thủ đoạn giết người chẳng mấy xa lạ trong cung đình các triều.

"Quan gia có đồng ý không?" Ta hỏi Đặng đô tri, nghĩ đến vẻ mặt lo âu của y mới rồi, ta thật sự không nắm chắc được chuyện này.

Đặng đô tri nói: "Quan gia trợn mắt nhìn Vương Vụ Tư nửa ngày, nhưng không lập tức tỏ thái độ. Miêu nương tử bèn quỳ xuống lạy quan gia, khóc lóc đòi ngài lựa chọn giữa con gái và Lý Vĩ, xem xem muốn ai sống tiếp. Du nương tử cũng quỳ xuống theo người khẩn cầu, còn kể lại rất nhiều chuyện khi công chúa còn bé, miêu tả dáng vẻ hồn nhiên hoạt bát của người khi đó, quan gia nghe mà đỏ hoe hai mắt. Cuối cùng, ngài thở dài, cũng không nói gì, đi sang Nhu Nghi Điện, đại khái là tìm hoàng hậu thương nghị. Hai nương tử đi theo, hiện giờ họ đang ở Nhu Nghi Điện, cũng chẳng biết đã có quyết định chưa."

Ta đã hiểu mục đích y đi chuyến này: "Thế nên đô tri đến tìm công chúa, muốn xin người đi ngăn cản, cứu phò mã?"

Đặng đô tri gật đầu: "Ta suy đi nghĩ lại, cảm thấy nếu hoàng hậu cũng cho là có thể giết phò mã thì chỉ công chúa mới có thể khiến họ hồi tâm chuyển ý... Phò mã là người tử tế, tuy hơi đần độn, không được công chúa thích, nhưng tính tình rất tốt, nếu chỉ vì vậy mà bỏ mạng thì oan uổng quá rồi!"

Ta tin công chúa sẽ như Đặng đô tri phỏng đoán, tuy chán ghét Lý Vĩ nhưng không cho rằng tội hắn đáng chết, nếu biết phụ mẫu nàng vì nàng mà nổi sát tâm với Lý Vĩ, hẳn sẽ ngăn cản họ – nhưng đó là trong tình huống công chúa tỉnh táo và có khả năng phán đoán. Mà nay đầu nàng bị thương nặng, sốt cao mê man, dẫu có đánh thức nàng ngay bây giờ, ta cũng không dám đảm bảo nàng có thể lập tức hiểu được tình hình hiện giờ mà chạy đi cứu Lý Vĩ.

Ta nhanh chóng chạy tới Nhu Nghi Điện, hi vọng có thể cố hết sức mình khuyên họ từ bỏ phương án tàn khốc này. Nhưng ta còn chưa tới được cửa Nhu Nghi Điện thì đã trông thấy xa xa, Miêu hiền phi và Du sung nghi lần lượt đi ra, còn Vương Vụ Tư thì không theo sau lưng hai người.

Đáy lòng ta rét lạnh, đứng sững tại chỗ. Miêu hiền phi trông thấy ta, rất kinh ngạc, đi tới bên ta hỏi: "Hoài Cát, ngươi tới đây làm gì?"

Ta gượng cười, không trả lời câu hỏi này mà hỏi ngược lại bà: "Vương tiên sinh đi đâu rồi ạ?"

"Y đến vườn phò mã rồi." Miêu hiền phi đáp, mặt không biểu cảm đáp "Hôm nay là tiết Hoa Triêu, theo lệ quan gia phải ban rượu cho tông thất ngoại thích..."

Ta không nghe bà nói hết, xoay người rảo bước chạy về phía cửa cung."


7. Tâm ý

Lúc ta trông thấy Lý Vĩ, Thôi Bạch đang ở cạnh hắn.

Trong vườn cây cối sum sê, hương hoa nồng nàn, bên cầu đá kê vài chiếc bàn đá, trên bàn bày dao cầm cổ, vài cuốn thư họa, lư hương cạnh cây hoa lượn lờ hương khói, lại có Thôi Bạch áo xanh ở trong đó, cảnh tượng trang trọng như buổi hội nhã của văn nhân mặc khách, hẳn là Lý Vĩ mượn dịp ngày lành mời Thôi Bạch đến ngắm hoa thỉnh giáo.

Vận Quả Nhi và Gia Khánh Tử chia ra đứng bên họ, xuất hiện trong bức tranh này còn có Vương Vụ Tư và vài nội thần mang theo rượu ngự ban thưởng.

Một tiểu hoàng môn bưng chiếc chén rót đầy rượu tới trước mặt Lý Vĩ, Lý Vĩ hành lễ xong mỉm cười nâng chén rượu lên, còn nói lời tạ ơn.

Ta bước vội tới, mắt nhìn chén rượu, cao giọng kêu: "Đô úy, không được!"

Hắn sửng sốt, bàn tay nâng chén rượu hạ xuống.

Vương Vụ Tư trông thấy tay, nhíu mày: "Hoài Cát!"

Ta không quan tâm, đi tới bên cạnh Lý Vĩ, nói rõ với hắn: "Rượu không thể uống."

Lý Vĩ ngạc nhiên cúi đầu, nhìn chằm chằm ngọc dịch trong chén, sắc mặt từng chút sa sầm.

Vương Vụ Tư nhất thời nổi giận, trừng ta trách mắng: "Hoài Cát, cậu nói vớ vẩn gì đấy! Đây là rượu ngự quan gia và hoàng hậu ban cho đô úy, sao cậu ấy có thể không uống?"

Sau đó, y mỉm cười với Lý Vĩ, khom người: "Đô úy, xin hãy uống chén này ngay bây giờ, để lão nô có thể kịp thời về cung phục mệnh."

Lý Vĩ nhìn y, lại nhìn rượu ngự, nhất thời không đáp. Mà Vận Quả Nhi đứng xem đã nhìn ra đầu mối, lo lắng xen lời ngăn cản: "Đô úy, rượu này tuyệt đối không thể uống!"

Gia Khánh Tử và Thôi Bạch nhìn nhau, hẳn cũng biết trong đây có chỗ khác thường, song song tiến lên gọi Lý Vĩ, lắc đầu với hắn.

Lý Vĩ không có phản ứng gì quá lớn với kêu gọi và ám chỉ của họ, vẫn đang cụp mắt nhìn chén rượu. Rượu kia tỏa hương ngọt nồng, sóng sánh dưới ánh nắng vàng nhạt, khiến ta để ý được tay Lý Vĩ đang run lên khe khẽ.

Lát sau, hắn nâng chén rượu lên, có ý đưa tới bên miệng, ta không kịp suy nghĩ nhiều, lập tức phất tay áo đánh rơi chén rượu.

Chén rượu rơi xuống đất, vang tiếng vỡ tan, rượu bắn tung tóe. Vương Vụ Tư giận dữ, chỉ thị thuộc hạ muốn áp giải ta xuống, Lý Vĩ lại khom người xá y một xá dài, nói: "Ta có mấy câu muốn nói với Lương tiên sinh, mong Vương tiên sinh châm chước."

Tư thái hắn khiêm nhường như vậy, Vương Vụ Tư tất nhiên không tiện cự tuyệt, bèn gật đầu.

Lý Vĩ quay sang ta, ôn hòa ra hiệu bảo ta đi cùng hắn: "Hoài Cát, lại đây."

Ta không xem nhẹ thay đổi trong xưng hô của hắn đối với ta. Trước kia hắn luôn gọi ta là "Lương tiên sinh" như nội thần thị nữ trong phủ công chúa, trong tình huống thân phận của hắn cao hơn ta, xưng hô như vậy nghe vừa khách khí lại vừa xa cách. Gọi tên ta như bây giờ là lần đầu tiên trong nhiều năm qua.

Hắn dẫn ta đến bên bàn đá, nhặt một cuộn tranh lên hai tay đưa cho ta, nói: "Làm phiền Hoài Cát chuyển bức họa này cho công chúa."

Ta nhận lấy, mở ra xem. Đó là một bức tranh lụa thủy mặc, vẽ viện sâu cửa nặng thấp thoáng trong rừng trúc, trước cửa cỏ thơm rậm rì, sau viện lối nhỏ quanh co dẫn tới nơi mây khói thăm thẳm, trong sảnh vẽ một mỹ nhân thướt tha yêu kiều ngồi trước bình phong, sau lưng có thị nữ đang trang điểm cho nàng, bên cạnh mỹ nhân là một nam nhân vóc người hơi đậm bận bào rộng, tư thế ngồi thảnh thơi tự tại, mặt hướng về phía mỹ nhân, ngậm cười ngắm nàng.

Cành trúc cao thẳng hiên ngang, lá trúc miêu tả bằng hai nét móc cực kỳ tinh tế, ngàn cụm vạn khóm, đủ mọi hình thái, đó là đặc điểm vẽ trúc thủy mặc của Lý Vĩ, tranh này hiển nhiên nên hình dưới ngòi bút hắn. Viện hắn vẽ là dựa theo sân vườn nơi công chúa ngụ, dáng người nhân vật trong tranh cũng giống công chúa, đặc trưng của bản thân hắn và Vận Quả Nhi cũng phù hợp, nhưng cảnh tượng này chưa từng xuất hiện trong cuộc sống hôn nhân của họ, hẳn là cảnh tượng hắn vẫn hằng ước ao trong lòng.

Hắn là người trầm lặng, không giỏi giao lưu với người khác, lúc vẽ tranh cũng thường xuyên khóa mình trong phòng, không cho ai vào trong đứng xem bên cạnh, tác phẩm hắn cho ta xem cũng không nhiều, có lẽ là sợ ta phát hiện ra tâm ý hắn gửi vào nét bút. Nhưng lần này, hắn lại mượn phương thức này công khai với ta bí mật riêng tư không thể nói ra mà hắn độc thủ trong lòng nhiều năm nay.

"Kỳ thực, người bên cạnh nàng đáng ra phải là anh." Hắn chỉ vào nam nhân trong tranh, nói với ta, "Có một hôm ta đi ngang qua gác công chúa, thấy anh ngồi bên cạnh nàng ngắm nàng trang điểm, chính là dáng vẻ này."

Ánh mắt ta dời từ bức họa lên mặt hắn, trong lòng muôn vàn cảm khái, cũng chẳng biết nên cất lời từ đâu. Mà thời khắc này hắn đối mặt với ta, vẻ mặt tỉnh táo thong dong khác hẳn trước đây, hàm một nụ cười thân thiện, lại nói: "Ta từng hận anh, cảm thấy anh cưu chiếm thước sào, cướp đi vị trí trong lòng và bên cạnh công chúa mà đáng ra phải là của ta, cũng khiến ta lâm vào tình cảnh thành trò cười cho thiên hạ. Lúc anh rời đi, ta thấy công chúa khổ sở như vậy mới ý thức được, nàng là muốn tìm bạn lữ phù hợp với cả tính tình và cuộc sống của nàng, anh và nàng thanh mai trúc mã lớn lên bên nhau, hai người thấu hiểu lẫn nhau, tâm ý tương thông, mà đối với nàng, ta chỉ là một kẻ xa lạ ngu dốt, không được nàng cho phép đã đột ngột xông vào cuộc sống của nàng."

Thế nên, hắn quyết định lên tiếng cho ta, nhớ đến chuyện hồi kinh, ta rầu rầu nói: "Đô úy cầu xin quan gia tha thứ cho Hoài Cát, Hoài Cát lại chẳng trực diện tạ ơn, quả thật hết sức vô lễ."

Lý Vĩ lắc đầu: "Không cần cảm ơn ta, khi đó ta không phải là vì giúp anh mà là không muốn nhìn công chúa vì lẽ đó mà tìm cách tự tử."

Ta nói: "Lúc ấy người người bàn tán xôn xao, bất kể thế nào, đô úy có thể ra quyết định như vậy quả thực không dễ, Hoài Cát đội ơn nghĩa này, há có thể chỉ báo đáp bằng hai chữ cảm tạ."

"Ta biết mời anh trở lại ta sẽ mất hết mặt mũi, nhưng mặt mũi của ta so với tính mạng công chúa thật chẳng đáng kể đến." Lý Vĩ nói, sau đó lại cười cay đắng, "Đáng tiếc, ta vẫn chẳng tự mình biết mình, luôn ôm hi vọng, cho rằng khốn cảnh hôn nhân của chúng ta có thể hóa giải bằng thời gian và nỗ lực của ta... Ta thử mọi biện pháp, cả của bản thân cả của người khác kiến nghị, dẫu đối mặt với nàng hết lần này tới lần khác lạnh mắt sầm mặt, ta cũng vẫn không từ bỏ hi vọng. Sau đó, ta cũng không biết mình đang kiên trì cho điều gì, mà kết quả cũng mỗi lần một tệ đi, đến giờ còn hại thảm nàng."

Ta rất khó tìm được lời thích hợp để nói, cũng sợ nói ra sẽ sai, vì vậy chỉ giữ im lặng, lắng nghe hắn giãi bày.

"So với anh, ta quả thật hổ thẹn, bất kể là đối với thư họa hay đối với nàng." Hắn bùi ngùi thở dài, "Thưởng thức, trân trọng mà không thời thời khắc khắc nghĩ xem phải chiếm làm của riêng như thế nào, ấy hẳn mới là chân lý yêu người yêu vật."

Cuộn lại bức họa, hắn trịnh trọng giao tranh vào tay ta, kết thúc cuộc tâm tình này bằng lời dặn dò sau cuối: "Xin hãy chuyển bức tranh cho công chúa, nói với nàng, nếu kiếp sau có duyên gặp lại, hi vọng ta không còn là kẻ xa lạ đột ngột xông vào địa bàn của nàng."

Đoạn, hắn bước tới trước mặt tiểu hoàng môn bưng bình đứng hầu, nhấc nắp bình ra, giơ tay ngửa mặt, dứt khoát uống hết số rượu còn thừa lại bên trong.


8. Tề gia

Vận Quả Nhi hét lên một tiếng kinh hãi, nhào tới trước mặt Lý Vĩ, muốn giành lấy bình rượu trong tay hắn, song lúc ả giành được, rượu đã sớm bị Lý Vĩ uống cạn. Lý Vĩ nâng tay áo lau mấy giọt rượu mới rồi văng lên mặt, buông một tiếng thở dài thật dài, dáng vẻ như trút được gánh nặng, sau đó thẫn thờ đứng đó, ánh mắt không mục đích nhìn về phía bóng mây xa xăm cuối chân trời, mặc cho người bên cạnh gào thét thế nào cũng không phản ứng.

Vận Quả Nhi kiệt sức quỳ rạp xuống bên cạnh hắn, Gia Khánh Tử vội bước lại đỡ ả, ả liền ôm chầm lấy Gia Khánh Tử nức nở khóc ròng, Gia Khánh Tử an ủi ả, nhưng chính mình cũng không cầm được rơi lệ, gia nô tì nữ còn lại trông thấy cũng ào ào quỳ xuống, bưng mặt khóc thương.

Thôi Bạch cùng ta đi qua đỡ Lý Vĩ, lo lắng gọi hắn, thấy hắn không đáp, hốc mắt cũng không khỏi rơm rớm, mặt lộ vẻ buồn đau.

Dương phu nhân có bệnh trong người, trước đó đại khái đang nghỉ ngơi trong phòng mình, lúc này trong vườn tiếng khóc dậy trời, kinh động tới bà, bà chống gậy lảo đảo đi ra, tóm lấy một thị nữ hỏi, biết Lý Vĩ uống rượu ngự Vương Vụ Tư mang tới, lập tức hiểu ngay nguyên do, nhất thời nước mắt đầm đìa, đầu tiên là ôm Lý Vĩ kêu mấy tiếng "Con ta", sau đó giận tím mặt cầm quải trượng lên đi đánh Vương Vụ Tư, gào khóc: "Các ngươi giết con bà, bà đây liều mạng với các ngươi!"

Tiểu hoàng môn vội vàng ba chân bốn cẳng kéo bà lại, bà vùng vẫy, vừa khóc vừa mắng, Vương Vụ Tư lùi về sau hai bước, chỉnh lại ngay ngắn khăn chít đầu bị đụng lệch trong lúc né tránh trượng bà ban nãy rồi mới cười lạnh.

"Khóc cái gì!" Y nhìn mọi người chung quanh, cao giọng nói, "Rượu này không có độc!"

Người nghe kinh ngạc, tiếng khóc ngừng bặt. Vương Vụ Tư nói tiếp: "Rượu đô úy uống là rượu ngon hoàng hậu tự tay cất, tên là 'Doanh Ngọc', chưa từng bỏ thêm nửa giọt độc!" Đoạn, y chậm rãi đi tới trước mặt Lý Vĩ, cười nói: "Đô úy, vị rượu không tệ đúng không? Rượu của hoàng hậu không tùy tiện cho người khác, đến quan gia tới xin cũng chưa chắc người đã chịu cho đâu."

Lý Vĩ kinh ngạc nhìn y, lát sau, hít thở sâu hai ba hơi, đại khái là không nhận thấy trong cơ thể có gì khác thường, bèn nghiêng đầu nói với Dương phu nhân và Vận Quả Nhi: "Ta không sao."

Dương phu nhân kéo hắn nhìn trái nhìn phải, xác nhận hắn không có vấn đề gì, bấy giờ mới yên lòng, hay tay chắp thành hình chữ thập, bái tạ trời cao. Vận Quả Nhi cũng nín khóc mỉm cười, nắm tay Gia Khánh Tử thẹn thùng lùi ra sau lưng Lý Vĩ. Thôi Bạch nhìn Lý Vĩ, cũng cười nhẹ nhõm.

Lý Vĩ hồi thần, lập tức chắp tay với Vương Vụ Tư, nói ban nãy mẹ mình mạo phạm y, xin y lượng thứ. Vương Vụ Tư chỉ cười không tỏ ý kiến, chẳng để ý thêm nữa, xoay người gọi ta: "Hoài Cát, chúng ta đi."

Trên đường về cung, y hung tợn phê bình hành động lỗ mãng của ta, truy hỏi ta vì sao hoài nghi trong rượu có độc. Ta đương nhiên không khai ra Đặng đô tri, chỉ nói mình vô tình nghe được một hai câu lúc y bàn bạc cùng hai vị nương tử trong gác. Y ngừng than thở, nói: "Cậu đã nghe thấy rồi thì ta cũng chẳng giấu cậu làm gì. Ban đầu đúng là Miêu nương tử muốn xin quan gia ban rượu độc cho phò mã, nhưng quan gia khó lòng quyết định, bèn đi thương lượng với hoàng hậu. Hoàng hậu nghe xong, nói: 'Năm xưa bệ hạ là tưởng nhớ công ơn dưỡng dục của Chương Ý thái hậu, cảm thấy chẳng thể báo đáp nên mới nghĩ đến chuyện vinh sủng nhà cậu, để Lý Vĩ lấy công chúa, hôm nay sao lại nảy ra ý này? Nếu giết Lý Vĩ, tương lai yết kiến lăng tẩm biết phải đối mặt với hồn thiêng của Chương Ý thái hậu ở trên trời ra sao?' Lúc ấy, Nhậm Thủ Trung hầu bên đế hậu, cũng xen lời: 'Hoàng hậu nói chí phải. Huống hồ nếu phò mã chết vì bạo bệnh, chỉ e người đời sẽ sinh nghi, chúng ngôn quan cũng sẽ càng ầm ĩ gay gắt hơn.' Quan gia nghe xong bèn từ bỏ ý tưởng ban rượu độc, ngay sau đó, hoàng hậu sai người lấy rượu Doanh Ngọc tới, bảo ta mang đi ban cho phò mã, cũng an ủi cậu ấy nhiều hơn, bảo cậu ấy kiên nhẫn đợi công chúa trở về. Ta mang rượu đi, đang nói chuyện với phò mã thì cậu lật đật chạy tới..."

Trở lại cung rồi, ta và Vương Vụ Tư kể lại chuyện xảy ra với đế hậu và Miêu hiền phi, ta cũng đưa bức tranh Lý Vĩ bảo ta chuyển cho công chúa cho họ xem, kim thượng cảm khái khôn xiết, có phần hổ thẹn, hoàng hậu trầm ngâm không nói, mà Miêu hiền phi khi nhắc tới Lý Vĩ cũng bớt phẫn uất hơn rất nhiều, chăm chú nhìn tranh Lý Vĩ vẽ, chỉ lắc đầu luôn miệng lẩm bẩm: "Ôi, oan nghiệt, thật đúng là oan nghiệt..."

Tình trạng của công chúa vẫn bất ổn, rất ít khi tỉnh táo, ta cũng chẳng dám cho nàng xem bức họa ngay, sợ nàng lại có phản ứng kịch liệt gì, bèn tạm thời cất đi, muốn đợi thời cơ thích hợp đưa cho nàng sau.

Ta vốn tưởng rằng mình sẽ bị phạt vì tự ý chủ trương chạy đến vườn phò mã báo tin, nhưng kết quả lại khác xa những gì ta nghĩ.

Hôm sau, đô tri Đặng Bảo Cát và Nhậm Thủ Trung song song báo tin vui cho ta, nói kim thượng vừa tuyên họ và nhập nội nội thị tỉnh áp ban, bảo họ bãi chức chủ quản phủ công chúa của Vương Vụ Tư, để ta theo công chúa về phủ làm nội thần chủ quản như trước, mệnh họ thu xếp tất thảy công việc tương quan.

Theo lệ, ta nên vào Phúc Ninh Điện tạ ơn, nhưng sau khi vào, ta lại xin kim thượng cho mình từ chối, nói mình là tội thần bị biếm trục, không nên quay lại đảm nhiệm chức vụ quan trọng, vẫn giữ Vương tiên sinh lại thì hơn. Song kim thượng lắc đầu, nói: "Vương Vụ Tư hành sự ngoan độc, không từ thủ đoạn, suýt nữa hại ta sa vào hố bất nghĩa, để hắn ở lại phủ công chúa, hắn ắt sẽ tiếp tục khích bác ly gián, gây ra nhiều rắc rối hơn. Mà ngươi tuy từng phạm sai lầm, song vẫn luôn giữ lòng mình thuần lương, rơi vào trạng huống như hiện nay cũng vẫn biết thương tiếc tính mạng phò mã, thế nên ta bằng lòng tin tưởng ngươi, tin ngươi về sau sẽ bảo vệ công chúa, đồng thời cũng tôn trọng phò mã, khuyên giải cả hai bên, thúc đẩy họ hòa thuận trở lại..." Thoáng dừng lại, ngài nhấn giọng hỏi ta, "Ngươi sẽ không phụ lời giao phó của ta đâu, phải không?"

Ta lặng thinh không đáp, một lúc lâu sau mới dập đầu bái lạy: "Thần lĩnh chỉ..."

Vế tạ ơn còn chưa nói ra, ngoài điện chợt vọng vào tiếng huyên náo nho nhỏ, như có ai đang tranh luận điều gì. Ta và kim thượng cùng đưa mắt ra ngoài xem, thấy một nội thị hấp tấp chạy vào, bẩm báo kim thượng: "Đồng tri gián viện Tư Mã Quang đang ở bên ngoài, xin được yết kiến quan gia."

Kim thượng nhíu mày không vui: "Nói với y, hiện đã bãi triều, không phải lúc gián quan bẩm tấu, có chuyện gì đợi mai lên điện bàn sau."

Nội thị thưa: "Thần đã nói vậy, nhưng y không chịu đi, kiên trì nói chuyện này không thể lần khân, nhất định phải diện thánh tiến ngôn trong hôm nay."

Kim thượng hỏi: "Y muốn nghị chuyện gì?"

Nội thị trộm liếc ta, nhỏ giọng đáp: "Y nói, là chuyện quan gia cho Lương tiên sinh trở lại phủ Duyện quốc công chúa làm chủ quản."

Nội thị còn chưa dứt lời đã nghe thấy tiếng Tư Mã Quang ở ngoài điện cao giọng: "Thần, Tư Mã Quang, có việc quan trọng cần diện thánh, khẩn cầu hoàng đế tuyên triệu."

Đợi một chốc, không thấy kim thượng đáp lời, y lại lặp lại, liên tục nói đi nói lại câu này.

Kim thượng đỡ trán như nhức đầu không thôi. Tư Mã Quang tiếp tục thỉnh cầu không ngừng nghỉ, tiếng mỗi lúc một cao. Sau cùng, kim thượng chỉ vào màn che một bên ra hiệu ta lánh vào đó rồi bảo nội thị: "Tuyên y vào."

Tư Mã Quang rảo bước vào trong, quy củ hành lễ rồi lập tức đi thẳng vào việc của ta: "Thần từng dâng tấu, nói nội thần chủ quản phủ Duyện quốc công chúa trước đây Lương Hoài Cát thân phạm trọng tội, xin đừng triệu về, nhưng bệ hạ không tiếp nhận. Chẳng ngờ hôm nay chúng thần lại nghe nói bệ hạ tuyên triệu nhập nội nội thị tỉnh đô tri và áp ban, cho Lương Hoài Cát quay lại phủ công chúa làm chủ quản. Tin tức truyền ra, bên ngoài xôn xao, không khỏi lấy làm quái lạ."

Kim thượng cười khổ: "Các ngươi như có thuận phong nhĩ ấy nhỉ, tin tức linh thông quá chừng."

Tư Mã Quang khom người, nói: "Quan tâm chuyện nhà chuyện nước của bệ hạ là bổn phận của chúng thần, chúng thần không dám lười biếng."

Giơ cao triều hốt, y bắt đầu viện dẫn kinh điển, khuyên hoàng đế: "Thần nghe nói, thời Thái Tông hoàng đế, dực thiện (*) Duyện vương cung là Diêu Thản, hễ Duyện vương sai phạm, Diêu Thản tất sẽ tiến gián, xin Duyện vương cải chính, bởi thế nên Duyện vương và tùy tùng đều rất kiêng kị ông, sau đó, bọn tùy tùng xúi Duyện vương nói dối bị bệnh, hơn một tháng không lên triều yết kiến vua cha. Thái Tông vô cùng lo lắng, bèn triệu nhũ mẫu của Duyện vương vào cung, hỏi tình huống sinh hoạt thường ngày của Duyện vương. Nhũ mẫu nói: 'Đại vương vốn không bệnh, chẳng qua Diêu Thản quản thúc quá nghiêm, đại vương hành động không được tự do nên buồn bực thành bệnh.' Thái Tông nghe vậy nổi giận, nói: 'Trẫm chọn người chính trực phò giúp Duyên vương là muốn dạy nó lương thiện, mà nay nó lại không chịu tiếp thu khuyên can, còn giả bệnh muốn trẫm đuổi chính nhân nghĩa sĩ đi hòng tùy tiện phóng túng, há có thể dung túng cho nó! Duyện vương còn trẻ, nghĩ không ra loại quỷ kế này, nhất định là các ngươi dạy nó.' Đoạn, Thái Tông sai người kéo nhũ mẫu của Duyện vương ra vườn sau đánh hơn chục trượng, lại triệu Diêu Thản tới, thăm hỏi động viên. Thái Tông làm vậy chẳng lẽ là không thương con mình? Chính bởi thương con sâu nặng nên mới muốn nghiêm khắc với con, hướng con thiện lành. Nếu dung túng con muốn gì làm nấy, không nỡ khiển trách, kỳ thực chẳng khác nào hại con. Nay Duyện quốc công chúa bị nội thần ly gián, không hòa thuận với phò mã, bệ hạ cần noi theo Thái Tông, dạy bảo công chúa, nghiêm trị tội thần, mới có thể khiến công chúa tự biết ăn năn, yên bề gia thất."

(*) Có thể hiểu là chức gián quan nhưng ở cấp vương phủ, phò trợ và khuyên can thân vương.

Kim thượng nói: "Duyện vương là nhi tử của Thái Tông, nếu hành vi không đoan chính, có khả năng sẽ gây ảnh hưởng tới xã tắc, đương nhiên phải dạy bảo nghiêm khắc. Nhưng công chúa tuy là ái nữ của trẫm, song cũng chỉ là nữ giới, dẫu có phạm sai thì cũng chỉ là tâm tính con gái, không tính là đại sự, trẫm sẽ tự tiến hành khuyên bảo. Khanh so với chuyện thân vương là có phần không thỏa đáng rồi."

"Bất kể là thân vương hay công chúa cũng đều là con thiên tử, nhất cử nhất động đều được thiên hạ để ý, trong tương lai, hành vi của họ cũng sẽ được viết vào quốc sử cho hậu nhân đánh giá!" Tư Mã Quang phản bác, rất nhanh sau đó, y lại nghĩ ra một ví dụ khác, "Tề quốc Hiến Mục đại trưởng công chúa là con gái Thái Tông hoàng đế, em gái Chân Tông hoàng đế, cô của bệ hạ, có thể nói cao quý bậc nhất thiên hạ. Song Hiến Mục công chúa nhân hiếu khiêm cung, y như hàn tộc (*), phụng dưỡng một nhà phò mã Lý thị cũng trọn đạo làm dâu, kính trọng phu quân, không phạm đố kỵ. Đến nay người trong thiên hạ nhắc tới tấm gương phụ đức, ai cũng đặt Hiến Mục công chúa lên đầu. Hiến Mục công chúa không phải không biết thân mình cao quý, song lại quý mà không kiêu, thế nên mới giữ được phúc phần, hiền danh cũng có thể lưu truyền thiên cổ. Thần cho rằng, bệ hạ dạy công chúa nên noi theo Thái Tông hoàng đế; công chúa lấy lễ thờ chồng nên noi theo Hiến Mục công chúa. Như vậy, gia phong tốt đẹp của bệ hạ ắt sẽ rạng khắp tứ phương, mà tiếng tăm của bệ hạ và công chúa cũng sẽ lưu truyền hậu thế. Mà nay bệ hạ chiều ý công chúa, không quản thúc theo lễ pháp, dẫn đến công chúa không biết kính sợ, tính tình tùy hứng, thậm chí còn lấy tính mạng đe dọa quân phụ, khinh rẻ phu quân, không giữ phụ đạo. Nếu bệ hạ cứ mãi dung túng, sao đặng thúc đẩy tác phong nhân hiếu lễ nghĩa trong nước, làm gương sáng cho đời sau?"

(*) Ngược lại với quý tộc, chỉ dân thường.

Y dõng dạc hùng hồn nói hết những lời này, kim thượng vẫn trầm mặc không lên tiếng, Tư Mã Quang bèn tiến lên mấy bước, lại gần hạ bái kim thượng, một lần nữa nghiêm túc nêu thỉnh cầu của mình: "Quốc vương khác với người thường, hành sự lấy làm mẫu mực thiên hạ, cho nên gia đạo phải nghiêm, không thể phóng túng buông thả. Thần kính mong bệ hạ trục xuất Lương Hoài Cát, để hắn trở lại chỗ lưu đày trước kia. Nếu tùy tùng công chúa muốn làm bệ hạ triệu Lương Hoài Cát về, đó chính là muốn dạy công chúa bất thiện, cũng nên trị tội cả thảy, đuổi hết đi, chọn người cẩn thận hiền lương bù đắp lỗ hổng ấy."

Kim thượng vẫn đáp lời khách sáo trì hoãn trước sau như một: "Ý của khanh, trẫm đã rõ, chuyện khanh nói, trẫm sẽ nghĩ lại. Mời khanh về trước, ngày mai lên điện chúng ta lại bàn."

Tư Mã Quang vẫn không chịu thôi, nắm hốt một lần nữa vái lạy, khăng khăng đòi kim thượng ra quyết định ngay bây giờ: "Bệ hạ, thần nghe việc một lần nữa bổ nhiệm Lương Hoài Cát làm nội thần chủ quản phủ công chúa là vào hôm nay. Nếu bệ hạ chịu tiếp nhận lời can gián trung tâm của thần thì nên nhân khi còn chưa công bố sắc lệnh, tuyên triệu nhập nội nội thị tỉnh đô tri và áp ban, thu hồi khẩu dụ bổ nhiệm, bằng không một khi thánh chỉ ban bố, ắt sẽ kích thích trong ngoài triều đình bàn tán nhiều hơn, đến lúc đó lên triều tất chẳng tránh được lại thêm một hồi triều can."

Kim thượng không vui, giọng điệu có phần bực bội: "Vì chút chuyện nhỏ này của nhà trẫm mà triều can, há chẳng phải chuyện bé xé ra to?"

Tư Mã Quang cao giọng đáp: "Nhà thiên tử không có chuyện nhỏ, chuyện nhà tức chuyện nước. Nếu bệ hạ chẳng thể tề gia thì làm sao trị quốc bình thiên hạ?"

Câu này làm kim thượng cứng họng, Tư Mã Quang lại dịu giọng, tiếp tục khuyên nhủ: "Bệ hạ nên nhanh chóng quyết định, nếu ngày mai lên điện nghị chuyện này, để ngôn quan luận chi tiết ngôn hành của công chúa trước mặt mọi người thì không hay."

Đây đúng là một tình huống có thể làm kim thượng băn khoăn. Ngài suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng bất đắc dĩ thỏa hiệp với Tư Mã Quang, sai nội thị triệu đô tri và áp ban Hậu tỉnh tới, tuyên bố chuyện phục chức cho ta làm nội thần chủ quản phủ Duyện quốc công chúa còn cần cân nhắc thêm, tạm thời gác lại.

Tư Mã Quang nghe vậy lập tức bái lạy, tán tụng "Bệ hạ anh minh", lại chuyển sang nói lời can gián cuối cùng trong ngày: "Mong bệ hạ răn cấm công chúa, luật pháp là thước đo của thiên hạ, công chúa nhiều lần làm trái chiếu lệnh, không tuân khuôn phép, tuy là con thiên tử, song bệ hạ cũng không thể thiên vị. Bệ hạ cần răn đe nghiêm khắc, làm công chúa về đúng đường ngay. Như vậy mới có thể giúp công chúa phúc lộc dài lâu, không mất danh thiện. Nếu không, miệng người đáng sợ, tôn nghiêm quốc gia, danh dự công chúa, ắt sẽ hủy trong tức khắc."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen30h.Com