Truyen30h.Com

Co Thanh Be Milan Lady

(*) Câu trong bài "Ngư gia ngạo - Thu tứ" của Phạm Trọng Yêm, thời Tống.

1. Liếm nghé

Kim thượng cũng giống như ta, đều cảm thấy Tư Mã Quang ngăn cản ta phục chức mới chỉ là bước đầu tiên, y nhất định sẽ tiếp tục thỉnh cầu kim thượng một lần nữa đuổi ta khỏi kinh thành. Vì thế, kim thượng đến Nghi Phượng Các nói chuyện riêng với Miêu hiền phi hồi lâu, đại khái là thương lượng với bà xem nên điều ta rời khỏi công chúa như thế nào, song cuối cùng Miêu hiền phi kịch liệt phản đối, bà đứng phắt lên thê lương nói: "Không thể để Hoài Cát rời đi lần nữa! Hiện giờ nó như thuốc tê của công chúa vậy, có nó công chúa còn có thể được vài lúc yên ổn, nếu nó không ở đây, công chúa sẽ đau khổ chết mất!"

Có lẽ kim thượng cũng đồng ý với quan điểm này, ngài im lặng, không nhắc lại về chuyện này nữa.

Miêu hiền phi lại căm giận nói: "Tay Tư Mã Quang kia thật đúng là đồ ba gai, y chằm chằm dán mắt vào chuyện của công chúa không tha, từng bước o ép, khiến người ta thở cũng không ra hơi. Chẳng bằng quan gia điều y đi, càng xa càng tốt, đỡ cho y lại sinh sự làm hại con gái chúng ta!"

Kim thượng thở dài: "Tư Mã Quang trung lương chính trực, đức hạnh vô khuyết, tìm đâu ra được chỗ sai! Vô cớ điều y ra ngoài, triều đình ắt sẽ xôn xao, cuộn trào sóng gió lớn hơn."

Miêu hiền phi ứa nước mắt: "Vậy sau này quan gia xử lý chuyện công chúa vẫn phải nơi nơi chốn chốn xem sắc mặt y sao?"

Kim thượng suy nghĩ rồi nói: "Để ta điều y rời khỏi Gián viện vậy. Không ở vị trí đó, có lẽ y sẽ ít lời hơn chút."

Thế là ngài hạ chỉ thăng Tư Mã Quang làm tri chế cáo. Tri chế cáo và hàn lâm học sĩ được gọi chung là "lưỡng chế", phân công quản lý ngoại chế, nội chế, thảo chiếu lệnh cho hoàng đế, chức vị cao quý, lại dễ tấn thăng, kẻ sĩ quán các đều lấy vào được lưỡng chế làm vinh. Hơn nữa, chỉ xét riêng về bổng lộc, tiền lương của tri chế cáo cũng nhiều hơn gián quan, bởi vậy, người đời cũng cho rằng Tư Mã Quang sẽ vui vẻ đón nhận bổ nhiệm, nào ngờ Tư Mã Quang liên tiếp dâng đơn xin miễn, nói mình tài sơ học thiển, chữ nghĩa không đủ, không thể đảm nhiệm chức vị từ thần, khẩn cầu thánh thượng giữ y lại Gián viện, tiếp tục cho y làm ngôn quan.

Thoạt đầu kim thượng còn cho rằng đó chỉ là lời khiêm tốn theo lệ trước khi thăng chức của Tư Mã Quang, không thay đổi thánh ý, giục y nhậm chức, song Tư Mã Quang lại dâng đơn liền năm, sáu bận, thái độ kiên quyết, lặp đi lặp lại nhấn mạnh văn chương chiếu lệnh không phải sở trường của mình, không dám lĩnh chỉ. Cuối cùng, kim thượng mang chồng đơn dày cộp ấy đến cho Miêu hiền phi xem, hai người đưa mắt nhìn nhau, bó tay hết cách.

Kim thượng cả ngày mặt ủ mày chau, chỉ khi ở trước mặt công chúa lúc nàng tỉnh táo mới có thể dịu dàng hé cười. Dáng vẻ ngài nhìn công chúa rốt cuộc cũng khiến ta lĩnh hội được thế nào là "trâu già liếm nghé (*)" – ánh mắt ngài như một bàn tay mềm mại, luôn cố thử xoa dịu vết thương vô hình của con gái.

(*) Thành ngữ xuất phát từ , chỉ tình thương yêu sâu nặng của cha mẹ đối với con cái.

Trừ suy xét chuyện của ta ra, họ cũng rất lo rằng Lý Vĩ sẽ hỏi ngày công chúa trở về, họ không biết trong tình huống hiện nay, hôn nhân của công chúa và Lý Vĩ nên duy trì ra sao. Mà Lý Vĩ thì lại đột ngột chủ động đề ra một phương án giải quyết: Hắn dâng tấu tự hặc, nói mình thờ chủ không chu toàn, tội không thể tha, khẩn cầu kim thượng điều hắn ra ngoài.

Miêu hiền phi mừng rỡ, ra sức khuyên kim thượng chấp thuận lời thỉnh cầu của hắn, sau một hồi cân nhắc, kim thượng cũng đồng ý, tuyên bố điều phò mã đô úy Lý Vĩ làm tri Vệ Châu, mẹ hắn, Dương thị, sang sống với huynh trưởng Lý Vĩ, Lý Chương, Duyện quốc công chúa vào sống trong cung, nội thần trong phủ công chúa đều theo nàng hồi cung, giải tán tất cả kẻ hầu người hạ còn lại.

Như vậy, thứ nhất, trên thực tế là công chúa và Lý Vĩ ở riêng, tuy không đoạn tuyệt, song cũng giúp công chúa tạm thời thoát khỏi cuộc hôn nhân nàng căm ghét.

Sau khi kim thượng ra quyết định này, Miêu hiền phi lặng lẽ báo tin cho công chúa, công chúa ngơ ngác nhìn mẹ chằm chằm, nghe bà nói mấy lần mới như hiểu được ý nghĩa. Tựa người vào chăn gối, đôi môi nhạt màu của nàng nhếch lên độ cong vành trăng non, song thần thái đắng chát.

Ta có thể đoán được ngôn quan sẽ không để yên cho quyết định này của kim thượng, song phản ứng dữ dội của họ thì lại nằm ngoài dự liệu của ta.

Lúc kim thượng bảo người tuyên đọc chiếu lệnh này trên điện, ta đang tán gẫu với công chúa và Gia Khánh Tử trong Nghi Phượng Các. Nghe theo đề nghị của ta, Miêu hiền phi triệu Gia Khánh Tử vào cung chơi với công chúa hai ngày. Gia Khánh Tử mang theo mấy cuộn tranh của Thôi Bạch và vài món đồ chơi nho nhỏ gã làm đến, mở từng cuộn ra trước mặt công chúa, mời nàng thưởng ngoạn. Trong đó có một hộp gấm nó chưa mở ra ngay mà liếc thoáng qua ta như có điều băn khoăn, công chúa lại trực tiếp nhận lấy, mở hé nắp hộp ra xem qua rồi đặt xuống bên cạnh, cũng không có vẻ gì là có ý định cho ta nhìn. Ta nghĩ chắc là đồ dùng khuê phòng của con gái nên không hỏi nhiều, chỉ cùng họ thưởng thức những món khác.

Lát sau, có nội thị từ Thùy Củng Điện nơi kim thượng lên triều tới, nói với ta: "Quan gia mời Lương tiên sinh lập tức lên điện."

Ta không khỏi kinh ngạc, hoàn toàn không ngờ rằng hoàng đế sẽ tuyên mình lên điện trong lúc lên triều.

Công chúa nghe vậy, lập tức sốt sắng hỏi: "Cha gọi Hoài Cát đến đó làm gì?"

Nội thị ngập ngừng: "Thần cũng không biết... Mới rồi quan gia thảo luận chuyện điều phò mã ra ngoài cùng một vài đài quan gián quan, mấy tay ấy nhắc đến Lương tiên sinh nên quan gia mệnh thần tới tuyên triệu Lương tiên sinh..."

Công chúa vô cùng bất an, đứng dậy lại gần ta, nắm chặt tay áo ta.

Ta cho nàng một nụ cười trấn an, nhẹ nhàng rút ống tay áo ra khỏi bàn tay nàng, ôn hòa nói: "Không sao đâu, thần đi một lát rồi về."

Ta rảo bước ra ngoài, đi đến cửa gác, không nhịn được ngoảnh đầu, thấy công chúa đuổi theo mấy bước, vịn cột trụ ngoài hiên đưa mắt nhìn theo ta, cau mày chăm chú, nom nơm nớp u sầu.

Lúc ta đến Thùy Củng Điện, thấy trong điện đã có rất nhiều người bước ra khỏi hàng, có gián quan có đài quan, có đứng có quỳ, đều cầm hốt cúi đầu, thần sắc nghiêm túc, xem ra là đang lần nữa tiến hành một trận đài gián triều can. Kim thượng ngồi trên ngai ngự thì nghiêng đầu sang một tên, tai đỏ thẫm, hai tay nắm chặt tay vị ngai ngự, gân xanh trên mu bàn tay nổi hằn lên, dáng vẻ chỉ có khi ngài tức giận cực độ.

Ta đi vào chính giữa đại điện, chưa kịp bái lạy, kim thượng đã quay phắt lại, phất tay áo chỉ vào ta, cao giọng nói với mọi người: "Các ngươi nhìn cho thật kĩ đi, đây chính là người các ngươi ép trẫm giết! Từ trong mắt nó, các ngươi có nhìn ra được chút tà khí gian nịnh nào không? Từ trên người nó, các ngươi có thể cảm nhận được chút hơi thở họa quốc hại dân nào không?"

"Bệ hạ!" Lập tức có người bước lên đáp trả, ta không cần chuyển mắt, chỉ nghe giọng thôi cũng biết y là Tư Mã Quang, "Trung gian há có thể phân biệt bằng bề ngoài? Lòng người sở dĩ khó dò cũng là bởi kẻ gian nịnh cũng có thể có bề ngoài thuần lương."

"Vậy các ngươi xem xét lại nó cẩn thận xem," Kim thượng nói, "Người ta nói lâu ngày thấy được nhân tâm. Trước đây nó từng phục vụ ở Tiền tỉnh nhiều năm, các ngươi đa phần xuất thân từ quán các, hoặc ít hoặc nhiều đều từng có cơ hội tiếp xúc với nó, triều hội lễ tết những năm gần đây cũng có khả năng trông thấy nó. Mời các ngươi suy nghĩ kỹ xem, các ngươi có từng thấy nó phạm lỗi bao giờ chưa? Các ngươi nói nó tội ác như núi, đáng bị tru diệt, vậy mời các ngươi liệt kê tội ác cụ thể của nó, miễn là có chứng cứ thiết thực, dù chỉ một tội thôi, trẫm cũng sẽ nghe theo lời các ngươi, tru diệt nó!"

Quần thần cứng họng, đều dồn mắt vào ta lưỡng lự băn khoăn, nhưng đều không mở miệng đáp lại kim thượng, đến Tư Mã Quang cũng nhất thời không tìm được lời nào phản bác. Chốc sau, một người thân bận bào xanh, có vẻ là đài quan, bước ra khỏi hàng, cầm hốt khom người, nói: "Kim thượng nói Lương Hoài Cát vô tội, nhưng trước đây hắn lại bị biếm tới Tây Kinh vì phạm lỗi, nếu Hoài Cát vô tội thì há lại bị biếm tới đó? Bệ hạ từng tự mình ban bố chiếu lệnh trục xuất hắn, mà nay lại bảo vô tội, ấy chẳng phải tự mâu thuẫn ư?"

Lời y khiến kim thượng khó lòng cự lại. Ngài đưa mắt nhìn, bắt đầu quan sát vị đài quan cấp thấp hơn ba mươi tuổi trước mắt này, hỏi: "Ngươi là ai?"

Đài quan khom lưng, đáp: "Thần là giám sát ngự sử lí hành Phó Nghiêu Du."

Thấy kim thượng không lên tiếng, Phó Nghiêu Du lại nói: "Phò mã đô úy Lý Vĩ tri Vệ Châu, chuyện quá đột ngột, người nghe kinh hãi. Ai nấy đều nói Lý Vĩ hành sự cẩn trọng, chưa từng nghe nói phạm sai bao giờ, chẳng biết vì sao bệ hạ lại bỗng đuổi cậu ấy ra ngoài. Mà Lương Hoài Cát vốn bị giáng chức vì phạm lỗi thì lại không dưng được triệu về, thể chế triều đình chưa từng có ngoại lệ như thế. Chuyện phu thê Lý Vĩ vốn không cho người ngoài biết, xử lý thế nào nên là cha con bệ hạ tự quyết định, tiện thần vốn chẳng xứng mở miệng, nhưng hôm nay phò mã vô cớ bị trách phạt, nội thần có tội được giữ lại, người nghe trừ bỏ kinh ngạc thì đều đang suy đoán nguyên nhân bên trong. Thần tin rằng công chúa được bệ hạ hết lòng dạy dỗ từ khi còn bé, trang nhã hiền thục, sẽ không có hành vi thất lễ, nhưng vạn miệng xôn xao, đồn đại điều tiếng, dẫn đến phỉ báng, là điều khó tránh. Thế nên thần khẩn cầu bệ hạ bảo toàn nhân duyên của công chúa, không bổ nhiệm phò mã ra ngoài, còn Lương Hoài Cát, dẫu không đến mức tru diệt, song vẫn nên trục xuất như cũ, như vậy mới có thể rửa sạch lời đồn, danh dự của công chúa cũng không bị tổn hại."

Vừa dứt lời, lập tức được nhiều ngôn quan khác tán thành, đều yêu cầu giữ Lý Vĩ trục xuất ta. Kim thượng lắc đầu, nói: "Công chúa là con gái trẫm, trẫm quan tâm tới danh tiết của nó hơn bất kỳ ai trong các ngươi. Nếu Hoài Cát quả thật từng làm tổn hại đến danh dự của công chúa thì trẫm đã chẳng chút do dự giết nó lâu rồi. Đối với công chúa, Hoài Cát vừa là thầy vừa là bạn, nào có kinh khủng như các ngươi nghĩ. Huống hồ, nó lại là nội thần... Nó cũng không khác gì một cuộn tranh, một bó hoa, một lư hương, đều chỉ là chút an ủi công chúa có thể tìm đến trong cuộc sống không hạnh phúc..."

Nhắc đến cuộc sống không hạnh phúc của công chúa, ánh mắt ngài lộ vẻ ảm đạm, cụp mi ngẫm nghĩ đôi chốc, ngài lại ngẩng lên nhìn thẳng chúng thần, giãi bày những lời khiến tất cả đều kinh ngạc: "Hôn sự của Duyện quốc công chúa là một nước đi sai lầm của trẫm. Trẫm từng cho rằng đó là lựa chọn tốt nhất, vừa có thể báo đáp ơn nghĩa của Chương Ý thái hậu, vừa có thể khiến các ngươi hài lòng, nhưng chẳng ngờ lại hại khổ con gái trẫm... Nếu sự tình phát triển đã đi ngược lại với nguyện vọng, dẫn đến kết quả bây giờ, vậy trẫm cũng chỉ có thể nghĩ cách bù đắp lại cho sai lầm này..."

Ngài thản nhiên thừa nhận hôn sự mình an bài cho công chúa là nước đi sai lầm đã đủ khiến mọi người sửng sốt rồi, mà sau đó lại nói hứa hôn như vậy là để "khiến các ngươi hài lòng", hiển nhiên là ám chỉ hôn sự của công chúa liên quan đến chính sự triều đình, ngài chọn một người hoàn toàn không có căn cơ trong triều như Lý Vĩ cũng là để cân bằng lợi ích đảng phái ngàn sợi vạn mối vướng mắc khó phân. Thẳng thắn bậc này, khó trách quan viên trong điện đều trợn tròn hai mắt, bất chấp lễ nghi vua tôi, ai nấy đều dòm trộm vẻ mặt kim thượng.

Người đầu tiên ứng đối lại là Phó Nghiêu Du. Trước khi kim thượng muốn tiến thêm một bước nói ra quyết định bù đắp sai lầm, y chặn lời ngài: "Bệ hạ chưa từng sai! Bệ hạ chọn Lý Vĩ làm thượng chúa hoàn toàn là để ban vinh cho nhà cậu, báo đáp ơn dưỡng dục của Chương Ý thái hậu. Khi ấy thiên hạ nghe thấy đều thi nhau ca tụng, lấy làm cảm động đức nhân hiếu của bệ hạ, cũng khuyên con noi theo, người trong nước ai cũng lấy hiếu nghĩa làm đầu, tác phong ấy đến nay vẫn còn dư âm, có thể thấy lựa chọn của bệ hạ anh minh sáng suốt. Thế nên, bệ hạ càng không nên thay đổi dự tính ban đầu, không để Lý Vĩ nghi sợ, lấy đó bảo toàn sủng ái nguyên gốc; không để Hoài Cát hưởng may, lấy đó nghiêm phòng về sau. Huống chi, con gái bệ hạ hãy còn vài vị bé, lần lượt lớn lên, nhất cử nhất động tất sẽ lấy Duyện quốc công chúa làm gương, bệ hạ không thể để mặc. Thần mong bệ hạ tinh tuyển cung tần, lấy đạo lý mài giũa công chúa, làm công chúa thu bớt tính tình, yên bề gia thất. Như vậy, lòng hiếu thảo của bệ hạ đối với Chương Ý thái hậu càng tăng thêm mà đồn đại phỉ báng công chúa trong triều trên phố cũng sẽ lắng xuống."

Nói xong, y khấu đầu một lần nữa vái lạy kim thượng, "Đây là lời tâm huyết của thần, mong bệ hạ nghĩ lại; tấm lòng kẻ hèn, xin bệ hạ cân nhắc thêm."


2. Điệu múa

"Tấm lòng kẻ hèn..." Kim thượng lặp lại lời Phó Nghiêu Du, sầu não nói, "Vậy các ngươi có thể cũng thông cảm cho tấm lòng của trẫm được không? Con gái trẫm không muốn cầu sinh, mỗi buổi lên triều trẫm đều phải lo lắng, đến trưa trở lại trong cung, liệu có còn gặp lại nó nữa không."

Ngài nín thở ngồi thẳng dậy, gạt nỗi bi thương ra khỏi ngữ điệu, nở nụ cười nhạt nhòa hỏi Phó Nghiêu Du trước: "Khanh có con gái không?"

Phó Nghiêu Du lưỡng lự, nhưng vẫn trả lời: "Thần có hai con trai, không có con gái."

Kim thượng quay sang nhìn Tư Mã Quang: "Nhà Tư Mã khanh thì sao?"

Câu hỏi này làm Tư Mã Quang hơi không yên, có nét muộn phiền chợt lướt qua trong mắt y, nhưng y nhanh chóng nghiêm mặt lại như cũ, khom người đáp: "Thần không có con gái ruột, nhưng dưới gối có con thừa tự nhận nuôi trong tộc."

Kim thượng đưa mắt nhìn hết thảy đài gián quan quanh điện, chậm rãi nói: "Nếu các ngươi từng làm cha thì hẳn có thể tưởng tượng được cảm thụ của trẫm hôm nay phải không? Duyện quốc công chúa là con gái trẫm, mười mấy năm trước, có một khoảng thời gian nó từng là máu mủ ruột thịt duy nhất của trẫm. Trong mắt trẫm, nó quý giá hơn xa cái gọi là 'minh châu trong lòng bàn tay', giang sơn đều là vật ngoại thân, huống chi những thứ vàng bạc châu báu như khói thoảng mây trôi. Mà công chúa lại tương thông huyết mạch với trẫm, là một phần của sinh mạng trẫm. Lúc nó bị thương, nhìn dáng vẻ nó thoi thóp yếu ớt, tính mệnh như chỉ mành treo chuông, trẫm thật sự rất sợ mất đi nó. Nếu nó không còn nữa, cái trẫm mất đi không chỉ là một công chúa mà là một phần sinh mạng đứt lìa. Nhìn đó đau khổ như thế, trẫm cũng có thể cảm nhận được nỗi đau đứt gan đứt ruột, càng khiến trẫm đau đớn hơn là, đau khổ của nó là do một tay người làm cha trẫm gây nên... Nếu các ngươi cũng có con gái, mắt thấy nó rơi vào khốn cảnh vì lỗi lầm của các ngươi, các ngươi sẽ cảm thấy thế nào? Cuộc đời còn lại của công chúa đại khái đã vô duyên với hỉ lạc, thế nên, bây giờ trẫm cũng khẩn cầu các ngươi, cho trẫm một cơ hội mất bò mới lo làm chuồng, để trẫm bù đắp lại phần nào, cho nó chí ít cũng được chút an lành."

Lời ngài nói đã bộc lộ hết thảy tấm lòng cha mẹ, đại đa số quan viên nghe xong đều nín thinh, nhuệ khí trong mắt cũng giảm đi nhiều. Phó Nghiêu Du cũng trẫm mặc, chỉ cầm hốt cúi đầu đứng lặng, nhưng cùng lúc đó, một quan viên khác lại bước lên trước, bày tư thế tiến ngôn.

Tư Mã Quang.

"Bệ hạ thương con gái, về tình có thể thông cảm, nhưng thần cũng muốn hỏi bệ hạ, có từng nghĩ đến cảm thụ của phu nhân Lý quốc cữu chăng?" Tư Mã Quang nói, tiếp đó trần thuật giọng cảm khái, "Bà ấy là mẹ của phò mã, cũng có tấm lòng cha mẹ. Ban đầu được bệ hạ ban hôn, chắc hẳn quốc cữu phu nhân cũng dạt dào mừng rỡ, mong đợi cô dâu vào cửa, sớm ngày an hưởng phúc lộc con cháu. Nhưng ngờ đâu công chúa và phò mã lại chẳng hòa thuận, hiếp đáp mẹ chồng, tin sủng nội thần, để đến nỗi người ngoài bàn tán, lấy làm quái lạ. Đối mặt với tình cảnh ấy, trong lòng quốc cữu phu nhân bi thương ra sao chẳng khó gì tưởng tượng. Hôm nay bệ hạ lại vì thiên vị công chúa mà biếm trục phò mã, khiến mẹ con Lý thị ly tán, gia đình trôi giạt, lớn nhỏ ưu sầu, chẳng thể nương thân. Kết quả này cũng đâu phải ước nguyện ban đầu của bệ hạ khi quyết định thông gia với Lý thị? Vì muốn chiều ý con gái mà bệ hạ có thể hoàn toàn mặc kệ tấm lòng xót con của quốc cữu phu nhân, cưỡng ép cốt nhục bà ấy chia lìa ư? Bệ hạ yêu thương công chúa, Dương thị cũng yêu thương con trai bà ấy, dẫu trên dưới khác biệt, tôn ti chênh lệch, song tình liếm nghé đều như nhau, bệ hạ há có thể lấy nỗi đau của người khác chạy chữa cho tổn thương của công chúa? Ngày giỗ của Chương Ý thái hậu ngay trong tháng Hai này, bệ hạ lật lại vật cũ trong tráp của thái hậu, lại nghĩ lại nơi ở của thái hậu khi sinh thời mà xem, cảm giác đơn côi lẻ bóng, chẳng được hưởng ơn mưa móc ấy, chẳng lẽ lại không thê thương? Bệ hạ truy niệm Chương Ý thái hậu, chọn Lý Vĩ làm thượng chúa, là muốn gắn kết thân thích, vinh hiển nhà họ, báo ơn mẫu thân. Mà nay khiến mẹ con Lý Vĩ rơi vào kết cục như thế, bệ hạ không cảm thấy hổ thẹn với hồn thiêng Chương Ý thái hậu trên trời ư? Món nợ nhân tình thiếu của Lý thị, phải trả thế nào đây?"

Y đúng là có sở trường làm ngôn quan, chuỗi truy vấn lần lượt tăng nhấn ngữ điệu và động tác giơ tay phất áo đã phụ trợ y hoàn toàn không yếu thế trước mặt hoàng đế, ngược lại còn giống như một phu tử đang dạy bảo học trò, lời nói ra câu nào cây nấy lý lẽ vẹn toàn, kim thượng lộ vẻ khó xử, buông mi, ngậm miệng không nói.

Thoáng dừng lại, không thấy kim thượng trả lời, Tư Mã Quang lại đề nghị: "Thần ngu dốt cho rằng, bệ hạ nên giữ Lý Vĩ lại kinh sư. Người hầu kẻ hạ trong phủ công chúa, ai chưa từng phạm lỗi đều có thể ở lại, đồ đạc trong phủ cũng để yên không di dời, đợi công chúa nghe bệ hạ giảng giải nghĩa lý mà hồi tâm chuyển ý, thuận đức tuân lễ rồi thì lại về phủ, Bằng không, công chúa ắt sẽ không quay về với Lý thị." Nói đến đây, y lại nghiêng đầu nhìn ta, trong mắt nhiều thêm một tia sáng lạnh lùng, "Còn về phần Lương Hoài Cát, nếu bệ hạ quyết định khoan dung nhân từ với hắn, cũng có thể tha hắn không phải chết, nhưng nhất định phải trục xuất xa hơn, cách chức điều ra ngoài, cả đời không được triệu về."

Đài gián quan còn lại gật gù lia lịa, cũng xin kim thượng tiếp nhận đề nghị của Tư Mã Quang, Phó Nghiêu Du cũng tán thành, còn nói với kim thượng: "Bệ hạ yêu thương công chúa là nhân chi thường tình, nhưng không thể đánh đồng yêu thương với yêu chiều. Bởi yêu chiều mà để công chúa không tuân lễ nghĩa, không thủ phép tắc, cuối cùng sẽ hại công chúa. Huống chi, công chúa lạnh nhạt với phu quân, bệ hạ trục xuất Lý Vĩ mà cho vời nội thần sai dịch về, là cử chỉ trái lễ, đã khiến bốn phương cười chê, nếu không bổ cứu theo lời Tư Mã học sĩ, ngày sau bệ hạ làm sao dạy dỗ được những ấu nữ còn lại?"

Kim thượng suy nghĩ một hồi rồi bình tĩnh ngẩng đầu, mở miệng nói với chúng thần: "Xin lỗi, ta vẫn không thể làm theo ý các ngươi. Nếu để con gái ta phải chịu thêm một lần đả kích như vậy nữa, nó sẽ chết."

Ta phát hiện ra ngữ khí ngài thay đổi. Trên triều đình, hoàng đế tự xưng dùng "ta" mà không dùng "trẫm", nếu không phải cố ý để bày tỏ thái độ chân thành với chúng thần thì chính là ngài cầm lòng không đậu, dùng giọng điệu nói chuyện của người bình thường mà chẳng tự hay.

"Ta mười lăm tuổi đại hôn, đến hai mươi chín tuổi mới nghênh đón đứa con gái đầu tiên Duyện quốc công chúa, giữa chừng chờ đợi trọn mười bốn năm." Kim thượng nói, vẫn dùng giọng điệu của người thường, chậm rãi trần tình, "Vì nghênh đón nó, ta thấp thỏm bất an đợi ba ngày ba đêm, cơ hồ không chợp mắt chút nào. Đêm nó ra đời, ta đứng chờ ngoài phòng sinh của Miêu nương tử, gió rét khoét xương, ta bị cảm lạnh. Nhưng, trông thấy đứa bé đầu tiên của mình xinh xắn khả ái như vậy, ta thật sự rất vui, ba đêm không ngủ cũng vui, bị cảm lạnh cũng vui. Đêm ấy, lần đầu gặp nó, nó mở mắt, khóc long trời lở đất, ta thế mà cũng rơi lệ theo."

Nói đến "rơi lệ", giọng ngài khác thường. Ta cụp mắt đứng đó, không trông thấy vẻ mặt ngài, nhưng lại tựa nhìn thấy đôi mắt ngài rưng rưng, cũng có thể cảm nhận được thời khắc này ngài hồi tưởng thương cảm ra sao và năm đó mừng rơi nước mắt đến mức nào, qua lời kể run run của ngài.

Chút biến đổi ấy chỉ vụt lướt trong chớp mắt, ngài điều chỉnh lại cảm xúc, nói tiếp: "Trong khoảng thời gian đợi nó ra đời, mỗi ngày ta đều suy nghĩ, ngoài đưa nó tới thế gian này, ta còn có thể làm gì cho nó. Lần đầu tiên bế nó, ta nhìn ánh mắt nó, trong lòng thầm lập thệ, ta sẽ yêu quý nó cả đời, để nó có một cuộc sống hạnh phúc không sầu bi. Kể từ khi có lời thề hẹn dài lâu ấy với nó, mỗi thời mỗi khắc ta đều nhắc nhở mình phải đối xử thật tốt với nó, để nó có thể lớn lên và sinh hoạt trong bình an vui vẻ, ta đã làm mọi thứ ta có thể. Nhưng xót xa làm sao, cam kết lớn nhất ta cho nó lại là cái ta không cách nào bảo đảm khả năng thực hiện... Ta từng cho rằng hôn sự của nó và Lý Vĩ sẽ khiến tất cả mọi người đều hài lòng, là sự lựa chọn tốt nhất, nhưng kết quả lại khiến nó không vui đến thế. Quyết định sai lầm năm ấy của ta đã khiến nó mất đi hạnh phúc và sức khỏe, ta không thể mắc lỗi thêm nữa, không thể theo ý các ngươi, giữ chồng nó lại, đuổi tùy tùng nó tín nhiệm nhất đi, tiếp tục vây hãm nó trong cuộc hôn nhân này, cũng bỏ mặc sinh mạng nó hao mòn trong cuộc sống tăm tối không chút an ủi."

Cuối cùng, ngài hít một hơi thật sâu, đổi trở về ngữ khí hoàng đế, một lần nữa kiên định tỏ rõ thái độ của mình: "Trẫm rất cảm ơn các khanh đã quan tâm đến chuyện nhà của Duyện quốc công chúa, nhưng trẫm sẽ không thu hồi ý chỉ khi trước. Lý Vĩ vẫn sẽ tri Vệ Châu, trẫm cũng sẽ không trục xuất Lương Hoài Cát ra ngoài. Trẫm dĩ nhiên hổ thẹn với một nhà Lý thị và Chương Ý thái hậu, cũng sẽ cố hết sức nghĩ cách bồi thường. Các khanh chê cười trẫm cũng được, chỉ trích trẫm cũng được, trẫm đều sẽ không để ý, chỉ xin các khanh cho phép người cha trẫm đây được ích kỷ một lần để bảo toàn tính mạng cho con gái mình."

Kim thượng đã nói đến nước này, chúng đài gián quan cũng chẳng ý kiến gì thêm, huống hồ lời kim thượng giãi bày rất xúc động, giữa chừng chư thần nhìn nhau, đều có vẻ thổn thức. Quan viên nguyên bản bước khỏi hàng giằng co với kim thượng lục tục dợm bước trở về vị trí cũ, đến Phó Nghiêu Du cũng lẳng lặng lui về chỗ đứng ban đầu, chỉ duy một mình Tư Mã Quang không những không lui về mà còn tiến lên gần hơn, nhìn thẳng kim thượng.

"Bệ hạ!" Y cao giọng gọi kim thượng, giọng trầm ổn, ngầm chứa uy nghi, "Người đời gọi bệ hạ 'quan gia' là lấy ý từ 'Tam hoàng quan thiên hạ, Ngũ đế gia thiên hạ (*)'. Hoàng đế lấy thiên hạ làm nhà, vạn dân thiên hạ đều là con cái bệ hạ. Bệ hạ há có thể chỉ yêu thương công chúa mà ném con dân còn lại ra sau đầu? Hôm nay dư luận xôn xao, phiền nhiễu tai thánh, tất cả là bởi công chúa phóng túng buông thả, không biết kính sợ, nhiều lần trái lệnh vua cha, tin sủng nội thần, khinh miệt nhà chồng. Hôn nhân nữ tử xưa nay đều do cha mẹ quyết định, nữ tử đương nhiên phải tuân mệnh, xuất giá tòng phu, đâu ra cái lý vì ruồng rẫy phu quân mà khóc quấy đòi ly dị? Huống hồ thân phận của công chúa khác với người thường, lại có hoạn giả mê hoặc bên người, hôm nay công chúa có thể lấy tính mạng uy hiếp bệ hạ nhúng tay vào chuyện nhà mình thì ngày mai cũng có thể ỷ vào đó uy hiếp bệ hạ cho mình can thiệp vào quốc sự. Phòng biến cung khuyết là điều quan trọng nhất trong gia pháp tổ tông, có bài học kinh nghiệm của Hán Đường, bệ hạ không thể không cảnh giác. Vả lại, thiên địa cương thường không dung rối loạn. Nay Lý Vĩ vì công chúa mà bị biếm trục, ấy là phụ lấn lướt phu. Phụ có thể lấn lướt phu thì tử cũng có thể lấn lướt phụ, thần có thể lấn lướt quân. Tiền lệ một khi đã mở, về sau ắt không thể lấp, trên làm dưới theo, phong tục suy đồi, bệ hạ sao có thể dẹp yên thiên hạ quốc gia?"

(*) Tam hoàng ngũ đế chỉ những vị vua đầu tiên của Trung Hoa (mang tính chất thần thoại), ý câu này là Tam hoàng coi thiên hạ là của chung, Ngũ đế coi thiên hạ là nhà chung.

Sau đó, y cắm hốt vào thắt lưng, cong gối quỳ xuống, chắp hai tay xuống đất, đầu cũng chậm rãi chạm đất, tay đặt trước đầu gối, đầu đặt sau tay, hành lễ dập đầu trang trọng nhất với kim thượng, lại nói: "Thần kính mong bệ hạ xử lý công bằng chuyện công chúa. Nếu không thể thay đổi lệnh trục xuất Lý Vĩ thì công chúa cũng nên bị xử phạt, tước ấp (*) phong hàm không thể không chút giáng tổn, như vậy, bệ hạ mới có thể hiển minh thiên hạ đạo lý chí công. Còn về Lương Hoài Cát, tuyệt đối không thể tiếp tục nhân nhượng, ít nhất phải biếm trục ra ngoài, mới có thể khiến đồn đại lắng xuống. Công chúa không phải chịu mối lo thiến hoạn xúi bẩy, bệ hạ cũng có thể phòng họa lớn không xảy ra."

(*) Gọi tắt của tước vị và phong ấp; phong ấp là đế vương ban lãnh địa (đất phong) cho chư hầu và công thần.

Nghe y nói xong, kim thượng cũng chẳng mảy may có dấu hiệu thay đổi chủ ý, chỉ khoát tay: "Chuyện hôm nay nghị tới đây thôi, khanh lui ra đi."

Tư Mã Quang không chịu lĩnh mệnh, một lần nữa bái lạy, cao giọng thỉnh cầu: "Thần tấu lời tâm huyết, xin bệ hạ nghĩ lại!"

Kim thượng lạnh mặt, mím môi không đáp.

Tư Mã Quang lặp đi lặp lại thỉnh cầu mấy lần, vẫn không đợi được hồi âm, sau cùng, y quỳ thẳng người dậy, đưa tay tháo mũ ô sa trên đầu xuống.

Kim thượng cười nhạt: "Khanh muốn từ quan đấy à?"

Tư Mã Quang lắc đầu, nghiêm nghị đáp: "Bệ hạ, khi xưa thần khổ học mười năm không phải để cầu đai vàng áo tím, vượt trên mọi người, mà là hi vọng có thể phò tá một quân chủ hiền minh, góp phần giúp thiên hạ quy phục, trời yên biển lặng, thời thanh thế bình. Mà nay thần vô năng, không thể thuyết phục bệ hạ gạt bỏ yêu thích cá nhân, hiển minh đạo lý chí công, tương lai ắt sẽ khiến bệ hạ mông muội không tỏ lý lẽ, bỏ mặc tiếng xấu đạo nghĩa. Thần tận trách chẳng đặng, cũng không đất dung thân, chỉ có thể tuẫn chức tạ tội."

Kim thượng nghe ra ý y, vừa giận vừa sợ: "Ngươi muốn tiến gián vỡ đầu?"

Ngài đứng phắt dậy, nhưng trong cơn nóng vội, khí huyết công tâm, tay bưng ngực, mặt lộ vẻ đau đớn, lại nặng nề ngồi xuống ghế.

Lúc này, Tư Mã Quang đã đặt khăn chít đầu ngay ngắn xuống trước mặt, đứng lên, ánh mắt soi thẳng vào cột trụ điện bên trái...

Tất thảy bất quá chỉ diễn ra trong một cái chớp mắt, mọi người trong điện, bao gồm cả ta, đều không phản ứng kịp, dưới sự sửng sốt chỉ nhìn chằm chằm Tư Mã Quang, chưa ý thức được nên chọn hành động nào để ngăn cản y, Chính lúc này, ngoài điện vọng vào một giọng nữ: "Tư Mã học sĩ."

Trong hoàn cảnh lặng ngắt như tờ vào thời khắc này, tiếng gọi ấy nghe rõ mồn một, mọi người lập tức đưa mắt nhìn xem, Tư Mã Quang trong sự kinh ngạc cũng dừng sững nhịp bước, quay đầu nhìn ra ngoài điện.

Ta cũng giống mọi người, ngạc nhiên phát hiện ra đó là công chúa.

Bên trong nàng vẫn mặc áo đơn lĩnh trắng lúc ốm bệnh, bên ngoài khoác một tấm áo bào tay rộng, tơ lụa xanh nhạt, tròng ở ngoài cùng một lớp áo sa xanh mỏng tựa khói sương. Mái tóc dài buông xõa sau đầu không tết vấn, nàng quay mặt hướng trời, hãy còn chưa thoa phấn tô son, như thể chạy ra ngoài đương lúc trang điểm.

Trên mặt nàng vương đầy ngấn lệ, hẳn là trước đó không lâu đã rơi nước mắt rất nhiều, nhưng giờ khắc này lại hoàn toàn không có vẻ đau thương, đôi con ngươi lạnh nhạt nhìn Tư Mã Quang chăm chú, nàng bước từng bước tới gần, khóe miệng nhoẻn nụ cười mỉa mai.

Lúc đi tới trước mặt Tư Mã Quang, nàng từ từ nâng ống tay áo phải đó giờ vẫn một mực buông rủ lên, ống tay áo rút đi như nước, một con rối gỗ móc dây cao chừng một thước lộ ra trong tay áo nàng.

Con rối ấy mang hình dáng nữ tử, cũng mặc áo váy sa xanh màu sắc tương tự với xiêm y của công chúa, trên đầu đội miện hoa, phần mặt đeo một chiếc mặt nạ, má phấn môi son mày kẻ, họa nét nữ trang rất tinh xảo.

Đối mặt với Tư Mã Quang đang nghi hoặc quan sát nàng không hiểu ra sao, công chúa cười sâu kín, nhấc con rối lên, hai tay điều khiển dây treo, làm con rối huơ tay múa chân. Bản thân nàng cũng nhẹ phất tay áo, thướt tha dời bước, dáng người tao nhã, như đang nhảy múa. Đồng thời, nàng hé mở đôi môi, cất tiếng hát một bài từ: "Bồng bồng búi tóc mới vấn, nhàn nhạt phấn hoa điểm trang. Khói biếc sương châu lồng xiêm áo, phất phơ tơ lụa lung linh..."

Nghe ca từ, sắc mặt Tư Mã Quang đại biến, nhíu chặt mày nhìn chòng chọc công chúa, vừa tức giận vừa lúng túng.

Suy đoán theo nghĩa câu từ, bài "Tây giang nguyệt" này hẳn là viết về một cô gái thanh xuân mặc áo mỏng sắc xanh, thanh thoát uyển chuyển nhảy múa trên nền sênh ca, hành động của công chúa chính là mô phỏng lại cảnh tượng ấy.

Liên hệ với đoạn dưới bài từ mà công chúa còn chưa hát đến, cô gái trong bài hẳn không phải phu nhân của Tư Mã Quang, nếu quả thực có người như thế thì rất có thể đó là ca cơ vũ kỹ, như vậy, khi Tư Mã học sĩ còn trẻ cũng từng có một mối tình êm dịu dính dáng đến gió trăng.

Có vẻ như chúng thần tử cũng biết lai lịch bài từ này, bắt đầu châu đầu ghé tai, xì xào bàn tán, thậm chí có người còn khẽ cười, rọi ánh mắt hài hước về phía Tư Mã Quang.

Công chúa vẫn ngậm nụ cười lạnh nhạt ấy, vừa điều khiển con rối, vừa tiếp tục ngâm xướng bằng giọng hát mỏng manh như tơ nhện: "Gặp nhau mà bằng chẳng gặp, hữu tình khác chi vô tình..."

Hát đến vô tình, khả năng là công chúa cố ý, con rối trước cúi đầu xuống rồi ngẩng mạnh lên, miện hoa và mặt nạ cũng theo đó văng mất, hình dáng con rối hiển lộ làm nhiều người đứng xem hét lên một tiếng kinh hãi – mắt hõm răng chìa, chiếc đầu ấy là một cái đầu lâu chạm khắc từ gỗ!

Tay áo lục thoáng giương, mái tóc xanh phấp phới, công chúa cau mày cười khẽ, kéo dắt dây treo, thong dong ca múa, phạm vi nhảy múa của con rối mở rộng, lớp lớp vũ y như khói biếc sương châu cũng theo đó từ từ tản ra, lặng lẽ tuột xuống khỏi thân con rối, trực tiếp hiện ra trước mắt mọi người, không ngoài dự liệu của ta, là từng rẻ xương sườn...

Con rối móc dây này vốn làm theo hình dáng một bộ xương khô, tỷ lệ hoàn toàn tương đồng với cơ thể con người, chỉ là thu nhỏ lại. Hóa ra đây chính là con rối "kiểu khác" mà nàng muốn Thôi Bạch làm, thảo nào ban nãy Gia Khánh Tử không dám cho ta xem.

"Sênh ca dứt tiếng rượu mới tỉnh, sân sâu trăng tà lặng thinh..." Tiếng hát công chúa bay liệng trong đại điện rộng rãi yên tĩnh, hát hết một khúc, nàng lặp lại làn điệu, hát tiếp vòng kế.

Ánh mắt nàng mông lung, bước múa trôi nổi, bộ xương khô nàng điều khiển nhảy múa cùng nàng. Sắc mặt nàng tái nhợt, hai mắt lõm sâu, dưới ống tay áo thùng thình chỉ còn một cánh tay gầy trơ xương, nom cũng chẳng kém con rối dưới tay nàng bao nhiêu.

Mọi người chỉ trơ mắt nhìn nàng ngậm nụ cười ơ hờ vừa ca vừa múa, không ai lên tiếng ngăn cản, người nào người nấy đều trố mắt chăm chú nhìn nàng, vẻ mặt kinh hãi, chớp mắt như đang nhìn một con ma diễm lệ.

Tư Mã Quang xem điệu múa của bộ xương khô phơi bày trong bầu không khí kỳ dị ấy, ác liệt trong mắt dần tan đi. Lắng tai một lần nữa nghe tiếng hát yếu ớt của công chúa, cuối cùng, y buông một tiếng thở dài, im lặng buông đỉnh đầu mới vừa ngẩng cao xuống.


3. Vô dật

Tiếng hát miên man, vấn vít cùng khói xanh tuôn ra từ đôi nghê vàng chầu hai bên điện. Công chúa chẳng coi ai vào mắt, điều khiển con rối nhảy múa, ống tay áo phiêu diêu, bóng dáng mỏng manh như liễu rủ gió vờn. Người chung quanh như bị hai bộ xương hồng nhan khô này thi chú định thân, đều giữ nguyên trạng thái một mực bất động như trúng bùa, lắng nghe ca từ uyển chuyển buốt cóng của nàng, nhìn nàng kiều diễm thanh thoát, non xuân xa thẳm, xoay người liếc mắt, để mặc một sợi khói hương thụy não chạm phớt khuôn mặt nàng trắng muốt như hoa lê.

Hoàng đế trên ngai ngự mấy lần giơ tay áo che mặt, còn từng run giọng gọi công chúa: "Huy Nhu..." Nhưng công chúa như nghe không thấy, vẫn tiếp tục ca múa. Sau nữa, cắt ngang nàng là tiếng hô hoảng sợ của cận thị hầu bên kim thượng: "Quan gia!"

Công chúa dừng khựng điệu múa, buông hai tay áo xuống, ngơ ngác nhìn về phía phụ thân. Kim thượng nghiêng lệch người sang một bên, đầu rũ thấp, chừng như đã ngất xỉu.

Công chúa thả tay, con rối đầu lâu sụp xuống đất, nàng vội chạy đến trước mặt kim thượng, nắm tay ngài không ngớt gọi "Cha".

Nhưng không thấy kim thượng trả lời. Ta rảo bước về phía trước, đỡ ngài dậy cùng những nội thị còn lại. Chỉ thấy ngài nhắm nghiền hai mắt, chân mày nhíu chặt, khóe mắt có dấu vết rớm lệ.

Trở lại trong cung, thái y chẩn bệnh rồi nói kim thượng đây là do buồn lo liên tiếp lâu ngày, suy nghĩ quá nhiều gây ra. Mấy năm nay long thể ngài vốn chẳng quá an khang, hôn nhân bất hạnh của công chúa và chuyện lập trữ là hai tâm bệnh mang lại gánh nặng cho ngài, mà gần đây công chúa còn liên tục xảy ra chuyện, đá tảng đè ép tâm trí ngài từng chút tích lũy, cuối cùng đẩy ngài kề sát bờ vực sụp đổ.

Công chúa khăng khăng đòi trông giữ bên cha, dù cho chính nàng cũng yếu ớt khó cầm. Sau, kim thượng tỉnh lại, trông thấy nàng, câu đầu tiên cất tiếng là: "Sao con lại ở đây? Mau về nghỉ ngơi đi."

Ngài vẫn đối mặt với nàng bằng biểu cảm ôn hòa, không nhắc một chữ nào tới tình hình trên đại điện, chỉ luôn miệng giục nàng về nghỉ ngơi. Cuối cùng công chúa ngậm lệ rời đi, ta theo nàng ra ngoài, lúc đi tới cửa, không nhịn được quay đầu, thấy kim thượng một mực đưa mắt nhìn theo con gái, nụ cười dành cho nàng trước đó vẫn chưa tắt, mà trong mắt lại nhuốm nỗi ưu thương chẳng thể diễn tả bằng lời.

Hai ngày sau là ngày giỗ của tiên đế Chân Tông, kim thượng tuy thánh thể bất an nhưng vẫn gắng gượng chủ trì nghi thức lễ tế, tiếp nhận quần thần thăm viếng. Buổi chiều, sau khi tất thảy nghi thức đều đã kết thúc, ngài một mình vào Thiên chương các nơi cất giữ ngự thư của Chân Tông, mệnh nội thị trong gác ra ngoài, khóa mình trong điện thờ ngự dung (*) của Tổ Tông tại Thiên Chương các.

(*) Trong điện thờ này có tranh chân dung của hoàng đế các đời (gọi là ngự dung), như là thời nay người ta thờ di ảnh người quá cố vậy.

Lát sau, trong điện thờ vọng ra tiếng tiếng khóc rống đau thương não ruột, người nghe đều không khỏi xúc động, vài nội thị chạy vào hậu cung báo, Miêu hiền phi và công chúa hay tin, lập tức song song chạy tới Thiên Chương các.

Trong hơn hai mươi năm trước kia, ta đã nhiều lần chứng kiến kim thượng rơi lệ, nhưng lớn giọng gào khóc như vậy thì chưa từng nghe thấy. Nếu chẳng phải đau khổ khôn kể đã đạt đến cực độ, thân là chí tôn một nước như ngài tuyệt không thể nào thất thố như vậy.

Công chúa nghe tiếng khóc của phụ thân, trong lo lắng lại càng thêm sốt ruột, tự mình đi lên hai tay vỗ cửa điện thờ, cất giọng gọi cha, nhưng bên trong không có hồi đáp, vọng ra vẫn là tiếng khóc bi ai của kim thượng.

"Cha, chuyện của con gái đã khiến cha đau khổ sao? Cha đang giận con gái đó sao?" Công chúa sợ hãi hỏi.

Vẫn không ai trả lời.

Công chúa luống cuống quỳ rạp xuống trước cửa điện thờ, lệ tuôn như suối, hai cha con họ một trong một ngoài, ôm nỗi niềm riêng, nhưng đều bi thảm như nhau. Miêu hiền phi khuyên nhủ chẳng những không đen lại tác dụng gì mà ngược lại, còn làm công chúa càng thêm bức bối, vừa nức nở vừa dập đầu với trong điện, nàng cầu khẩn gọi đi gọi lại: "Cha, cha..."

"Để cha con ở một mình đi." Hoàng hậu chậm rãi đi tới bên cạnh công chúa, nói với nàng, "Cha con phiền muộn đã lâu, giờ khóc ra được là tốt."

Công chúa ngước cặp mắt đẫm lệ lên nhìn hoàng hậu, xoay người định hành lễ, hoàng hậu ngăn nàng lại, cúi người cầm khăn lụa lau nước mắt trên mặt nàng rồi ôn hòa hỏi: "Huy Nhu, ta có thể nói chuyện với con một lúc không?"

Công chúa gật đầu, nghẹn ngào nói: "Nương nương có gì dạy bảo ạ?"

Hoàng hậu nắm tay kéo nàng đứng dậy, nói với Miêu hiền phi mình muốn dẫn công chúa lên lầu nói chuyện, người hầu không cần đi theo, hiền phi đồng ý, bảo tất cả người hầu của công chúa ở lại, ta cũng dừng bước theo, nhưng hoàng hậu lại ngoảnh đầu nhìn ta, nói: "Hoài Cát. Ngươi cũng lại đây."

Công chúa theo hoàng hậu lên lầu, hãy còn bận lòng về tình huống của cha, lại đi tới bên lan can, lo lắng nhìn xuống dưới. Hoàng hậu thấy vậy cũng qua cùng, bảo nàng: "Đừng lo, cha con không sao đâu. Ngài là vị hoàng đế xứng chức, hiểu rõ trách nhiệm bản thân gánh vác, sẽ tự biết bảo trọng."

Công chúa rầu rĩ cúi đầu. Hoàng hậu lại dắt tay nàng, dẫn nàng đến giữa gác ngồi xuống, ngắm nàng một chốc rồi nhẹ nhàng hỏi nàng: "Huy Nhu, con biết tên con nghĩa là gì không?"

Công chúa gật đầu, đáp: "Cha có nói với con, nguyên đức sung mỹ rằng Huy, chí thuận pháp khôn rằng Nhu, 'Thượng thư – Vô dật' cũng viết: 'Huy nhu ý cung, hoài bảo tiểu dân'."

Lúc kim thượng giải thích ý nghĩa của Huy Nhu với công chúa, ta cũng có mặt, về nghĩa của chữ "Nhu", kim thượng còn từng nhắc đến một ý quan trọng khác – thuận đức lệ trinh. Xem ra công chúa đã tránh phạm húy chữ Trinh nên không đề cập tới phần này.

"Đúng vậy." Hoàng hậu lại hỏi: "Vậy con có biết vì sao năm ấy cha con lại đặt tên con như vậy không?"

Công chúa đáp: "Hai chữ đó đều mang ý tốt lành, cha lấy để bày tỏ chúc phúc cho con gái ạ."

Hoàng hậu nở nụ cười dịu dàng với nàng: "Không chỉ có thế. Đó đúng là lời chúc phúc dành cho con, nhưng cũng bao gồm cả kỳ vọng đối với con."

"Kỳ vọng?" Công chúa cau mày, có phần hoang mang.

Hoàng hậu gật đầu: "Nguyên đức sung mỹ, chí thuận pháp khôn, ngài hi vọng con vừa có phong tư mỹ nhân, vừa có nét đẹp đoan trang không thể thiếu của thuyền quyên vương bang, quan trọng nhất là phải có một trái tim hiền từ nhân hậu, lấy tư thái ôn hòa khiêm nhường đối đãi với con dân thiên hạ, ban ơn thiện lành, phúc rọi tứ phương." Nói tới đây, bà dụng tâm nhìn công chúa đang giữ im lặng, lại nói, "Đây cũng là yêu cầu của thần dân Đại Tống đối với vợ con thiên tử."

Công chúa lắc đầu: "Cả đời này con cũng chẳng học nổi nét đẹp đoan trang như của nương nương đâu. Con cũng không muốn làm thuyền quyên vương bang, sống như nữ nhi bình phàm nhà quan lại phổ thông là tốt lắm rồi, hoặc giả, làm con gái của một nhà nông cũng không tệ, chẳng ai dán mắt xoi mói mình, quan sát nhất cử nhất động của mình có phù hợp với nét đẹp đoan trang không, cuộc sống ấy lại chẳng nhẹ nhõm hơn bao nhiêu ư?"

"Cuộc sống của họ chưa chắc đã đơn giản như con nghĩ." Hoàng hậu thở dài, "Mỗi người sống trên cõi đời này đều phải gánh vác một trách nhiệm nhất định. Con gái nhà nông tử nhỏ đã phải theo mẹ trồng dâu nuôi tằm, chăn nuôi gia súc, nghèo hơn nữa, thậm chí còn phải theo cha anh xuống ruộng cày cấy; cô nương nhà phổ thông có thể sẽ phải học canh cửi dệt may, không thể thiếu năng lực lo liệu việc nhà; nữ nhi nhà quan lại ngoài nữ công kim chỉ ra còn phải học thi thư lễ nghi, hiếu kinh nữ tắc, để về sau có thể làm nữ chủ nhân nhà học sĩ đại phu, ngoài giúp chồng dạy con còn phải quản lý sự vụ cả một gia tộc... Bất kể là ai, từ thời khắc giáng sinh trở đi, đều sẽ gặp phải những trách nhiệm khác nhau mà thân phận đem đến cho họ, trên đời không có ai là không cần phải gánh vác bất kỳ trách nhiệm gì mà vẫn có thể sống tự do tự tại hết."

Công chúa dần hiểu ra: "Ý nương nương là, bày ra tư thái nguyên đức sung mỹ, chí thuận pháp khôn, làm thuyền quyên vương bang, là trách nhiệm của con."

Hoàng hậu mỉm cười: "Sĩ tử hàn môn khổ học thi thư, trong lúc mơ ước nhà lầu hoàng kim thường sẽ động viên mình: Không uổng những trắc trở và gian khổ từng trải qua; còn với những người như chúng ta, những người đã ở sẵn trong nhà lầu hoàng kim, thì cần thường xuyên nhắc nhở bản thân: Không uổng những vinh hoa và vui sướng từng đón nhận."

"Vậy cái giá con phải trả chính là tách biệt với Hoài Cát, tiếp tục sống cùng Lý Vĩ như lời các đại thần nói ư?" Hô hấp của công chúa dần trở nên dồn dập, ánh lệ giấu đi ban nãy lại hiện lên, "Nhưng những vinh hoa phú quý ấy đâu phải điều con mong muốn? Con vừa sinh ra đã là công chúa, con không có lựa chọn! Nếu được lựa chọn, con đã chẳng mong muốn sinh ra trong hoàng gia."

"Tất cả mọi người đều không được lựa chọn." Hoàng hậu đáp lời ngay sau đó, giọng vẫn ôn hòa, nhưng ánh mắt nhìn công chúa lại hiển lộ sự lý trí và bình tĩnh bà thường có. "Chúng ta không thể quyết định hay thay đổi xuất thân của mình, điều chúng ta có thể làm chỉ là chấp nhận hiện trạng, thích ứng với thân phận của mình, hoàn thành trách nhiệm của chúng ta. Chi tiêu cơm áo cả đời của nữ tử thiên gia đều không thoát khỏi thiên hạ nuôi dưỡng, được vạn dân cung phụng. Mà yêu cầu của thần dân đối với chúng ta chính là, mọi nữ tử của chúng ta đều phải có hết thảy mỹ đức, khi chưa lấy chồng thì làm một đứa con gái hiếu thuận, sau khi xuất giá thì làm một người vợ hiền huệ, sinh con rồi lại hóa thân thành người mẹ từ ái... Đối với họ, chúng ta không phải nữ tử bình thường mà là mỹ nhân trong tranh, hiền quyên trong sách, bồ tát trong miếu, là tượng thần cung cấp cho vợ con họ tấm gương để noi theo. Giữ hình tượng hoàn mỹ, làm mẫu mực của nữ tử quốc triều chính là phương thức chúng ta ban ơn cho thiên hạ. Thế nên, con không thể để lộ chân tướng thân thể máu thịt ngã vào phàm trần, nếu không họ sẽ kinh ngạc, lo sợ, thậm chí tức giận, o ép từng bước, nhất định phải thỉnh được con quay trở lại miếu thờ."

Công chúa lã chã, một mực xua tay: "Con không muốn làm pho tượng bồ tát của họ, con cũng không cần họ cung phụng, con không cần gì hết, con có thể sống nơi ngõ hẻm sơ sài ăn cơm ống uống nước gáo, miễn là họ không can thiệp vào cuộc sống của con..."

Ánh mắt hoàng hậu nghiêm lại, giọng thoáng cất cao: "Nhưng con đã được họ phụng dưỡng hơn hai mươi năm rồi!"

Công chúa ngẩn người, cụp mắt rơi lệ, không lời ứng đối.

Sắc mặt hoàng hậu dịu xuống, lại hòa nhã nói: "Người ở ngôi cao chỉ hưởng thụ phú quý tôn vinh mà không quan tâm tới trách nhiệm mà địa vị giao cho mình là đáng thẹn, ắt sẽ bị người đời phỉ nhổ. Thân phận con cao quý, được hưởng phúc lộc trời ban, phải biết tự quý trọng lấy. Cha con chính là một người tự biết tiếc phúc, trân trọng thân phận của mình, cũng hiểu rõ trách nhiệm mình phải gánh. Ngài biết kiềm chế dục vọng của bản thân, nhân nhượng yêu cầu của thần dân, khoan hậu cung kiệm, kính trọng tài sĩ, tại vị đến nay mấy chục năm mà trăm họ chưa từng nghe đến tiếng can qua... Huy nhu ý cung, hoài bảo tiểu dân, ngài đã làm được. Vậy Huy Nhu, con thì sao? Con có thể thông cảm cho nỗi lòng người cha của ngài không, hi sinh chút gì để không phụ kỳ vọng của ngài và vạn dân thiên hạ không?"

Lúc nói câu cuối cùng, ánh mắt hoàng hậu cố ý vô tình liếc qua ta, công chúa tức thì bất an: "Nương nương cũng bắt con tách biệt với Hoài Cát."

"Nếu con khăng khăng, cha con sẽ bảo vệ hai đứa." Hoàng hậu nói. Thực ra, bà chẳng qua chỉ đang trần thuật sự thật, nhưng nghe vào lại có sức mạnh lay động lòng người hơn lời can gián của bất kỳ một ngôn quan nào trên triều, "Ngài sẽ bảo vệ con, ngăn chặn lý luận sắc bén và thế công dấy lên từ đạo đức đại nghĩa, gia pháp tổ tông của ngôn quan cho con. Nhưng nghĩ là biết thôi, chỉ cần con và Hoài Cát còn bên nhau, ngôn quan sẽ không ngừng công kích, phàm hai đứa có một chút gió thổi cỏ lay gì, thế trận triều can như hôm nay sẽ lại tái hiện, khiến cha con phải đối mặt với những công kích một đợt tiếp một đợt của họ. Điều này sẽ khiến ngài vô cùng đau khổ, như hôm nay vậy. Nhưng ngài vẫn sẽ bảo vệ con, bởi con là đứa con gái ngài yêu thương nhất, ngài yêu thương con thậm chí còn hơn cả yêu sinh mạng ngài."

Công chúa đầm đìa nước mắt, để tránh cái nhìn chăm chú của hoàng hậu, nàng bưng miệng, nghiêng người đi, nhưng hai vai vẫn không ngừng run rẩy, khiến động tác che giấu bi thương của nàng thu được hiệu quả rất nhỏ.

Hoàng hậu thở dài rồi nói với công chúa: "Ban đầu khi tấn phong con làm Duyện quốc công chúa, cha con từng tự mình cầm bút, thêm một câu cho con vào chế thư học sĩ đã viết xong: 'Phong tư thông ngộ, chẳng phải ngoa ngữ mỹ từ; tính chất huy nhu, là tự nhiên mà thành'..."

Lời như hãy còn, nhưng bà chẳng nói tiếp nữa, chỉ quay sang ta, phân phó: "Hoài Cát, chăm sóc công chúa cho tốt." rồi tự mình đứng dậy rời khỏi trước, đi tới điện thờ dưới lầu nơi kim thượng đang ngự.

Ta dịch bước lại gần công chúa, khẽ giọng gọi nàng. Nàng bỗng xoay người, hai tay ôm eo ta, vùi khuôn mặt giăng đẫm ngấn lệ vào ngực ta.

"Hoài Cát, ta phải làm gì bây giờ?" Tiếng khóc nàng nặng trĩu nghe sao tuyệt vọng, "Chúng ta đều bị vây hãm ở đây rồi!"


4. Lục nga

Ta ôm lấy hai vai nàng, dần tăng lực siết chặt, như muốn kéo nàng thoát khỏi một vòng xoáy vô biên, nhưng đáy lòng ta lại cũng là một khoảng không trống rỗng. Ngẩng mặt nhìn lên, ta không nhìn thấy được bất kỳ một tia sáng hay hi vọng nào.

Cuối cùng, ta chọn trở lại không gian không lối thoát này, buông tay ra, cúi người, nửa quỳ xuống trước mặt nàng, để nàng có thể ngang tầm mắt với ta, sau đó, nói với nàng: "Xin công chúa nghĩ thêm về lời hoàng hậu nói."

Nàng rưng rưng nhìn ta chăm chú: "Huynh cũng cảm thấy họ nói đúng? Huynh cũng muốn rời khỏi ta?"

Ta trốn tránh không đáp, tìm một chủ đề khác: "Năm xưa công chúa không thích Trương quý phi là bởi bà ấy thân cư ngôi cao mà lạm dụng quyền lợi trong cung, hoành hành ngang ngược, ỷ mình đắc sủng nên đem hết thủ đoạn cả mềm cả cứng ra với quan gia, mưu lợi cầu thưởng cho mình và người nhà, lại chẳng có đức hạnh của phu nhân thiên tử. Hôm nay nếu công chúa khăng khăng giữ thần bên mình, trong mắt người khắp thiên hạ, hành động của công chúa nhất định cũng giống như của Trương quý phi, là hành vi thất đức."

Công chúa nổi nóng: "Sao lại so ta với bà ta? Hai chuyện khác nhau..."

"Trong mắt người ngoài thì không khác nhau." Ta nhẫn nại giải thích với nàng. "Không ai tận mắt trông thấy hay quan tâm đến căn nguyên và những gì đã xảy ra trong chuyện nhà công chúa, họ chỉ thấy kết quả, mà kết quả họ thấy được là công chúa không chịu tiếp tục chung sống với phò mã, khăng khăng đòi giữ kẻ nội thần ly gián công chúa và phò mã lại bên mình, vì thế mà mấy lần tự tử, uy hiếp quan gia bằng lòng..."

"Không phải như vậy!" Công chúa kịch liệt phủ nhận, ngăn ta nói tiếp.

Ta kìm nén cảm xúc phập phồng trong lòng, bình tĩnh nhìn nàng, trần thuật rõ ràng thực tế phải đối mặt với nàng: "Những người đang bàn tán và phán xét chuyện này đều là người đứng xem ngoài xa, họ cũng chẳng thể đến gần chúng ta, tìm hiểu ngọn nguồn vụ việc, cái họ có thể nhận biết được chỉ có kết quả sau cùng. Kết quả này bị họ cắt văn lấy nghĩa, có khả năng rất phiến diện, nhưng họ sẽ không có hứng thú và kiên nhẫn để tìm tòi chân tướng trong đó như mẫu thân công chúa, mà sẽ lập tức bị kết quả phiến diện ấy chọc giận, bởi mọi cơm áo vật dụng của công chúa đều do người trong thiên hạ cung phụng, chiếc áo lông cừu, lư hương đốt trầm của công chúa, mỗi một viên gạch mảnh ngói của phủ công chúa, cũng đều đến từ tiền thuế họ nộp, họ đương nhiên sẽ hi vọng công chúa mà mình phụng dưỡng là hiền quyên quốc bang đức hạnh hoàn mỹ chứ không phải một mụ vợ dữ dằn không giữ phụ đạo, càng không phải một đứa con gái xấu xa tin sủng nội thần, ngỗ ngược vua cha... Mà bản thân nguyện vọng ấy thì chính đáng hợp lý."

Công chúa khóc không thành tiếng: "Vì thỏa mãn nguyện vọng của họ mà chúng ta phải mặc họ xử oan ư? Ta phải làm một con phỗng ma hát lạc theo ý họ ư?"

Ta chỉ đáp lại bằng một tiếng cười, cười khổ. Không như vậy thì còn có thể thế nào? Tình cảm giữa công chúa và nội thần, bất kỳ ai không quen biết chúng ta nghe thấy cũng đều sẽ cảm thấy hoang đường nực cười. Họ chỉ thấy một công chúa ruồng rẫy trượng phu, đòi hỏi uy hiếp phụ thân, và một nội thần khích bác ly gián, họ thậm chí còn liên tưởng đến những điều bẩn thỉu, nhưng tuyệt đối sẽ không thử tìm hiểu, càng đừng nói đến thông cảm.

"Cha, cha hiểu..." Công chúa thút thít, nhắc đến cha mình song giọng lại yếu ớt thều thào.

Ta rầu rầu nói: "Phải, ngài biết, ngài cũng sẽ cố hết sức bảo vệ người, nhưng sự bảo vệ của ngài sẽ khiến các đại thần càng thêm tức giận, bởi mỗi khi quân vương tỏ ra sủng ái một ai đó hơn mức bình thường, đều sẽ khiến thần tử đặc biệt cảnh giác. Khi chuyện này xuất hiện ở công chúa, họ chắc chắn sẽ liên tưởng đến tai họa thái bình, yên vui. Hoàng đế càng bảo vệ công chúa, các đại thần sẽ càng phản đối, như hoàng hậu nói vậy, quan gia sẽ liên tục rơi vào đau khổ như hôm nay."

Công chúa lặng thinh, chỉ cúi đầu khóc nức, thật lâu sao mới lại hỏi ta: "Huynh muốn ta làm thế nào?"

Ta một tay nắm lấy tay nàng, một tay kéo ống tay áo đơn ra, nhẹ nhàng lau nước mắt trên mặt nàng như trước kia, đợi nàng có vẻ bình tĩnh hơn rồi mới hỏi nàng: "Hôm đó lúc quan gia tự thuật tình hình khi công chúa ra đời, chắc công chúa ở ngoài điện đã nghe được cả rồi phải không?"

Công chúa gật đầu, rèm mi buông rủ, lại có hai giọt nước mắt trượt xuống gò má ta vừa lau sạch.

Ta một lần nữa kéo tay áo lau vệt nước kia cho nàng, nói tiếp: "Lúc thần nghe quan gia kể vậy, thần hâm mộ công chúa lắm... Thần mất cha từ khi còn nhỏ, mẹ tái giá với người khác, kể từ đó, thần chưa từng gặp lại bà lần nào..."

"Sau khi trưởng thành có cơ hội ra ngoài cung, huynh có thể đi tìm bà ấy mà!" Công chúa nói.

"Sau đó thần cũng từng hỏi thăm nơi ở của bà, hằng năm cũng sẽ phái người đưa tiền bạc biếu bà, nhưng bản thân không đi gặp bà, bởi bà có sinh với chồng sau vài đứa con, bà trông thấy thần sẽ rất lúng túng, vả lại..." Ta gượng cười với công chúa, "Thần nghĩ, không ai mong muốn thấy con mình làm hoạn giả hết..."

Công chúa trở tay nắm lấy tay ta, khẽ gọi như an ủi: "Hoài Cát..."

Ta chớp mắt, giấu đi hơi ẩm trong mắt rồi lại nói với công chúa: "Cha ta sinh ta, mẹ ta nuôi ta. Chăm bẵm cho ta, che chở cho ta, thương ta bên ta, bế bồng dắt ta. Muốn báo ơn này, họa trời khó tính... (*) Trong hơn hai mươi năm thần sống, thường hay có lúc cảm thấy tiếc nuối vì không thể báo đáp công ơn dưỡng dục của cha mẹ, bởi đến cơ hội ở bên họ tận hiếu thần cũng chưa từng có. Công chúa có thể lớn lên bên cha mẹ vốn đã là phúc phận hiếm có, huống chi họ đều yêu thương công chúa như vậy... Quan gia thường nhắc đến ân điển của Chương Ý thái hậu, mà ơn dưỡng dục của quan gia đối với công chúa, công chúa cũng sẽ không coi nhẹ đâu, phải không?"

Công chúa cúi đầu lau lệ, không đáp. Ta đăm đăm nhìn nàng, thành khẩn khuyên nhủ: "Như trong lời bài 'Lục nga' kia, cõi đời này có hai người mà kể từ lúc mới sinh, chúng ta đã mắc nợ họ, đó chính là cha mẹ chúng ta. Họ sinh ra và nuôi nấng chúng ta, vỗ về chúng ta, che chở chúng ta, không ngại phiền phức chăm sóc cho chúng ta, không lúc nào thôi bận lòng vì chúng ta, ân đức dành cho chúng ta mênh mông vô tận như trời biển, là ơn nghĩa chúng ta báo đáp cả đời cũng khôn hết. Mà quan gia thì là người cha tuyệt vời nhất thần từng thấy trên đời, vì công chúa, ngài có thể dốc hết mọi thứ mình có, bằng lòng vứt bỏ không chỉ tài sản mà cả tôn nghiêm và nguyên tắc đế vương mà ngài coi trọng nhất. Tình yêu thương ngài đối với công chúa có thể khiến mọi thứ đều thua kém, bao gồm cả chút tình cảm hèn mọn thần có thể dành cho công chúa này. Đối mặt với một người cha như vậy, công chúa sao còn đặng khư khư cố chấp, mặc ngài tiếp tục trả giá sức khỏe, thậm chí là trả giá sinh mạng để bảo vệ chúng ta?"

(*) Bài "Lục nga" thuộc phần Tiểu nhã, Kinh Thi, đại ý là ca ngợi ơn dưỡng dục của cha mẹ và bày tỏ nỗi tiếc nuối hận mình không thể chăm sóc báo đáp lại cha mẹ cả đời.

Ta không nói tiếp, bởi nàng đã khóc không thành tiếng. Kiên trì của nàng dần bị nước mắt xói mòn, hòa tan trong đó là vô hạn bi thương, thân mình từng chút trượt xuống đất, tay áo xòe rộng che đi cánh tay gầy guộc, tựa như một đóa hoa lụi tàn, bất cứ lúc nào cũng có thể bị mưa dập gió vùi.

Một đêm khóc lóc thảm thiết lại khiến bệnh tình nàng trở nặng, mê man trên giường hai ngày, tỉnh lại rồi, nàng cũng chẳng thiết ăn cơm hay uống thuốc, chỉ tựa vào đầu giường ngơ ngẩn thất thần.

Sau, kim thượng đích thân đến Nghi Phượng Các thăm nàng, dầu rằng chính ngài cũng tâm thần ngơ ngẩn, bước chân lảo đảo.

Ngài bảo người dâng bữa lên cho công chúa, công chúa chỉ liếc mắt rồi chán ghét quay đầu đi, không mảy may có vẻ muốn ăn.

"Không thấy ngon miệng à?" Kim thượng mỉm cười hỏi công chúa.

Công chúa gật đầu.

Nụ cười trong mắt ngài sâu thêm, lấy một món đồ trong tay áo ra như làm ảo thuật, đưa tới trước mặt công chúa: "Nhìn xem đây là gì nào."

Công chúa cụp mắt xem, lập tức trợn tròn mắt, kinh ngạc ngước trở lại nhìn cha.

Đó là một đĩa mơ ủ.

"Cha nghe nói con không muốn ăn nên mang cái này tới. Mơ ủ có khả năng kích thích vị giác, là món con thích ăn nhất khi còn bé... Nhưng bây giờ chỉ được ăn hai viên thôi, sau đó ăn chút cơm, uống thuốc rồi cha sẽ đưa số còn lại cho con..."

Công chúa yên lặng nghe, chỉ trong thoắt chốc lệ đã rơi đẫm mặt. Không đợi kim thượng nói xong, nàng thình lình vén chăn xuống giường, quỳ gối trước mặt ngài.

"Cha," Nàng ngửa mặt nhìn phụ thân đang hết sức ngạc nhiên, nhấn từng chữ rõ ràng, "Con bằng lòng chia cách với Hoài Cát."


5. Kết tóc

Việc xử trí ta thế nào được thảo luận trong một bầu không khí ôn hòa. Kim thượng một lần nữa cho thấy sẽ không đuổi ta ra khỏi kinh, chỉ điều đến Tiền tỉnh, nhắc lại việc cất nhắc ta làm quan chủ quản Thiên chương các, ta uyển chuyển khước từ, nói: "Xưa nay nội thần thăng bậc có trình tự cố định, nên theo thứ tự. Thần không đủ phẩm cấp, không thể gánh trọng trách này, nếu bệ hạ gia ân đề bạt, đài gián tất sẽ có lời."

Kim thượng bèn hỏi ta: "Vậy ngươi muốn làm gì?"

Ta đáp: "Năm đó thần được điều từ Họa viện vào Hậu tỉnh, hôm nay xin bệ hạ cho phép thần trở lại nơi ấy. Cũng không cần cho thần chức quan gì cả, thần có thể làm một nội thị hoàng môn bình thường ở Họa viện, ngày ngày chỉnh lý tranh vẽ bản phác của các họa sư, vậy đã là như nguyện rồi."

Thế nên, chuyện này được quyết định như vậy. Ta từ quan chủ quản phủ công chúa ban đầu bị điều ra Tiền tỉnh làm nội thị hoàng môn trong Họa viện, giáng liền mấy cấp, lại cách xa hậu cung, trong mắt người ngoài cũng không khác nào bị trừng phạt nghiêm khắc, thế nên sau khi ý chỉ được tuyên bố, đài gián cũng chịu chấp nhận, không nhắc lại chuyện biếm trục ta nữa.

Trong khoảng thời gian này, Lý Vĩ đã rời kinh đi Vệ Châu, có lẽ là do hắn nhờ cậy mớm lời, huynh trưởng hắn Lý Chương dâng tấu thỉnh cầu kim thượng cho phép Lý Vĩ và công chúa ly dị: "Vĩ ngu dốt, không xứng đội thiên ân. Xin ban cho đoạn tuyệt."

Đế hậu thử hỏi lại ý kiến công chúa, ta cũng mang bức họa của Lý Vĩ ra đưa cho công chúa, tự thuật tình hình trước sau sự việc Lý Vĩ uống rượu ngự, công chúa xem bức họa rồi sai người thu cất, nhưng vẫn lắc đầu: "Ta biết anh ta là người tốt, nhưng lại chẳng thích hợp với ta. Chúng ta như hai càng xe gỗ bị buộc vào hai bên thùng xe, nhìn như có thể cùng đi qua thiên sơn vạn thủy, nhưng mãi mãi sẽ không bao giờ có ngày giao ngộ."

Vì thế, ngày Nhâm Tý tháng Ba năm Gia Hựu thứ bảy (*), kim thượng tuyên bố giáng chức Lý Vĩ từ phò mã đô úy xuống làm Kiến Châu quan sát sứ. Đồng thời, để cho công bằng, ngài cũng hạ Duyên quốc công chúa xuống làm Nghi quốc công chúa, giảm tước ấp bổng lộc theo ý Tư Mã Quang.

(*) Ngày 5 tháng 3 âm lịch năm 1062.

Tước hiệu gia phong của công chúa quốc triều cũng giống như danh hiệu của mệnh phụ, tên nước khác nhau, tước ấp được nhận cũng khác nhau, Nghi quốc kém xa Duyện quốc, có điều, hình phạt này cơ hồ chẳng có ảnh hưởng gì tới công chúa, đối với nàng của hiện tại, cái không quan trọng nhất chính là danh vị tiền tài.

Kim thượng ôm lòng áy náy với Lý thị, tuy Lý Vĩ mất chức phò mã đô úy, song ân lễ kim thượng dành cho hắn vẫn không giảm, lại ban cho hai trăm lượng hoàng kim, sai người truyền lời tới hắn: "Phú quý người phàm cũng không nhất thiết là làm chồng công chúa."

Tất thảy bụi bặm lắng xuống, cũng đã đến lúc ta phải nói lời từ biệt với công chúa. Một đêm trước khi ta rời khỏi gác công chúa, công chúa khẩn cầu Miêu hiền phi hết lời, xin cho ta lại bầu bạn với nàng một đêm, để hai chúng ta một mình, trò chuyện buổi cuối.

Thấy Miêu hiền phi do dự, công chúa nở nụ cười thăm thẳm, ánh mắt hiu quạnh: "Tỷ tỷ, sáng mai khi mặt trời mọc, con và Hoài Cát sẽ không còn gặp lại nhau cả đời này nữa rồi."

Chúng ta đã ước hẹn từ trước với nhau, một khi đã tách biệt thì về sau sẽ không nghĩ cách gặp lại nhau nữa, dẫu là lễ tết hội mừng cũng không gặp, đây vừa là để tuân thủ cam kết với kim thượng, cũng là để tránh cảm xúc khó nén sau khi gặp nhau.

Nghe con gái nói vậy, Miêu hiền phi cũng cầm lòng không đậu đỏ hoe mắt, bèn gật đầu đồng ý yêu cầu của nàng.

Đêm ấy sông Ngân xiết ánh, hiên ngọc vắng bụi. Ta và công chúa sóng vai ngồi trước bậc thềm trong hiên, chuông gió treo dưới mái hiên lanh canh, thềm hương chất đống lá đỏ, gió nổi lên, nàng mảnh mai co ro, ta giương tay áo che cho nàng, nàng cũng tựa khẽ vào ngực ta, chúng ta chỉ tựa vào nhau như vậy, nhìn sân trống bảng lảng sương khói, nhìn trăng sáng như nước tràn khắp lầu gác, im lặng hồi lâu, chỉ nghe tiếng đồng hồ nước xa xăm.

Lúc này đào mận điêu linh, hoa mai đã tàn, nhưng lại có một khóm hải đường đang nở rộ thắm đỏ trong bóng râm cây hòe giữa đình, giàn đồ mi bên tường cũng đơm bông trắng xóa, gió nhẹ thoảng qua, hương thơm miên man.

Công chúa trông mà nổi hứng, gỡ miện sa màu trên đầu xuống, đi vào sân hái hoa cài lên miện. Ta cũng theo nàng qua đó, lựa những đóa hoa tươi đẹp cho nàng dùng trang trí miện. Chỉ một loáng, miện nàng đã cắm đầy những bông hải đường đồ mi đỏ đỏ trắng trắng.

"Có giống miện hoa tân nương không?" Nàng mỉm cười nâng miện lên hỏi ta...

Chiếc miện ấy rực rỡ gấm hoa, như sa lụa nhuộm đỏ, quả thật giống miện hoa dùng trong hôn lễ đến mấy phần, ta bèn mỉm cười gật đầu với nàng.

Hai mắt nàng sáng rỡ, bỗng nêu lên một đề nghị: "Bây giờ ta đội nó lên, bái đường cùng huynh có được không?"

Ta vô cùng khiếp sợ, nhìn nàng câm nín.

"Ta nghe Gia Khánh Tử kể lại hôn lễ của em ấy với Thôi Bạch, thú vị lắm, nghi thức không giống lúc ta hạ giáng." Nàng nói, thần sắc mang vẻ ước ao. Nghi thức hôn lễ của nàng là do các học sĩ dẫn đầu là Âu Dương Tu định ra theo Chu Lễ, mang hơi hướm lễ chế cổ xưa, quả thực rất khác hôn lễ của bách tính phố phường.

"Ta cũng muốn có hôn lễ như của em ấy... Cưới Lý Vĩ hồi đó là công chúa, bái đường với Hoài Cát bây giờ là Huy Nhu..." Nàng buông thấp rèm mi, nhẹ giọng thẹn thùng hỏi: "Hoài Cát, huynh có bằng lòng không?"

Sau cùng, ta ưng thuận nàng. Trước đó Miêu hiền phi đã bình lui tất thảy người hầu theo yêu cầu của công chúa, hiện giờ trong gác công chúa chỉ có ta và nàng. Huống hồ, dẫu có bị ai nhìn thấy cũng đâu có làm sao. Đã đến lúc này rồi, còn có thể có kết quả tệ hơn nữa ư? Dù là cái chết, đối với ta cũng chẳng có sức uy hiếp gì nữa rồi.

Thế là, nàng hí hửng đội miện hoa lên, lại vào phòng tìm một tấm vóc màu ra, buộc thành đồng tâm kết, để ta và nàng mỗi người cầm một đầu, vắt lên tay, ngược lại, là nàng từ từ dắt ta vào gác ngủ.

"Đây gọi là 'dắt khăn'." Nàng nói với ta.

Sau đó, chúng ta bái lạy nhau trong phòng rồi ngồi xuống giường đối diện nhau. Ta kéo một lọn tóc ra cắt xuống theo chỉ thị của nàng, nàng cũng làm tương tự, kế tiếp dùng tơ sợi buộc tóc chúng ta vào với nhau, cũng thắt thành hình đồng tâm kết. Ta quan sát động tác của nàng, bỗng ý thức được, đây là lễ "hợp kế", dân gian gọi là "kết tóc", là nghi thức quan trọng trong hôn lễ trăm họ. Năm xưa khi công chúa hạ giáng, Âu Dương Tu nói lễ hợp kế "không biết có nguồn gốc từ kinh nghĩa nào, không đủ tiêu chuẩn làm lễ pháp đời sau", thế nên hôn lễ của công chúa và Lý Vĩ thiếu đi chi tiết này.

Công chúa lại bảo ta lấy hai chén rượu bạc tới, dùng dải lụa màu nối liền chúng với nhau rồi cùng ta uống một chén, đây chính là "rượu giao bôi" dân gian nhắc đến. Uống xong, nàng nói với ta, chúng ta phải ném chén rượu và miện hoa xuống dưới giường, sau đó nhìn xem chén rượu ngửa sấp ra sao, nếu một ngửa một sấp thì là "đại cát".

Ta làm theo lời nàng, cùng nàng ném chén rượu và miện hoa xuống. Nàng rất để ý kết quả, giục ta xuống giường xem chén rượu, ta kiểm tra, phát hiện ra kết quả không được như ý, cả hai chén rượu đều úp miệng xuống mặt đất.

"Thế nào?" Thấy ta không trả lời, nàng cau mày khẩn trương hỏi.

"Đẹp lắm, một ngửa một sấp." Ta mỉm cười đáp nàng, cùng lúc đó, lặng lẽ thò tay xuống dưới giường, lật một chén rượu cho miệng chén hướng lên.

Nàng vẫn không yên tâm, tự mình xuống giường kiểm tra, thấy đúng là một ngửa một sấp mới thở phào nhẹ nhõm, rạng cười hài lòng.

Lược bỏ phân đoạn tân khách chúc mừng, tiếp sau chính là "khép màn", hai ta đều tự rõ trong lòng, để nguyên quần áo song song nằm trên giường, giữa hai người duy trì một khoảng cách chừng nửa thước, tạm thời đều không chạm vào nhau.

Yên lặng một lúc lâu, nàng hỏi ta: "Hoài Cát, bây giờ là giờ nào rồi?"

"Chắc là canh ba." Ta đáp, lại nói, "Công chúa ngủ sớm đi thôi."

"Ta không ngủ đâu." Nàng thở dài ảm đạm: "Ta sợ lúc tỉnh lại, huynh đã không còn bên cạnh ta nữa rồi."


6. Áo suông

Lời nói nhạt nhùng mà sao nghe vào khiến lòng ta tang tóc, nghiêng đầu nhìn nàng, thấy trong mắt nàng gợn sóng loang loáng, lăn tăn trong ánh nến hồng.

Thời gian còn lại để hai ta bên nhau không nhiều, ta không hi vọng kết cục sau cùng lại là cầm tay nhìn nhau mắt đẫm lệ, thế nên, ta mỉm cười với nàng: "Công chúa, sau này thần cũng sẽ trông giữ bên người."

Nàng đưa mắt nhìn ta, tỏ vẻ hoang mang.

"Thần vẫn sẽ bầu bạn với người," Ta nói với nàng, "Khi người ngắm trăng, trong một hốc xó nào đó trong cung đình này, thần cũng sẽ ngắm cùng một vầng trăng với người; khi người dạo chơi ngoài vườn, thần sẽ đứng ngoài tường cung nơi ngọn gió lướt qua người thổi đến, có thể ngửi được hương hoa thoảng qua bên thân người; khi người luyện không hầu, thần vẫn ở cách người không xa, có lẽ cũng đang cầm sáo, thổi cùng một nhạc khúc với người... Tuy chẳng thể như bóng với hình như trước đây..."

"Bóng nằm dưới chân công chúa, Hoài Cát trong lòng công chúa." Công chúa bỗng tiếp lời, nhắc tới câu nói đùa khi xưa, điều này khiến lòng ta rung lên, trong cơn ngơ ngác, quên khuấy mất lời vốn định nói.

Nàng nghiêng người dựa gần vào ta, thầm thì: "Giữa hậu cung và Tập Anh Điện chỉ cách nhau một bức tường cung, trong cung uyển có một cây đào rất cao, cành lá vươn ra ngoài tường. Sau này vào tiết lập xuân, hoa triêu, hàn thực, đoan ngọ, thất tịch, trùng dương, lập đông hằng năm, ta sẽ đích thân cắt lụa màu thành dải hoa, treo lên cây đào ấy. Vào mỗi ngày lễ đó, huynh đến bên ngoài Tập Anh Điện xem, nhìn thấy dải hoa là như thấy ta."

Ta gật đầu ứng lời. Cảm giác ngữ điệu nàng âu sầu, thân mình đang run lên nhè nhẹ, bèn nắm tay nàng, mượn hành động này truyền sự an ủi không lời và hơi ấm của ta cho nàng.

Nàng tựa vào ta một chốc, lại hỏi: "Hoài Cát, huynh nói xem, con người có kiếp sau không?"

Ta đáp: "Chắc là có. Người chết rồi có lẽ cũng như đi ngủ vậy, đến khi tỉnh lại thì đổi sang một thân thể và thân phận khác, có thể bắt đầu một cuộc sống hoàn toàn mới."

"Nếu vậy, kiếp sau, huynh nhất định phải tìm được ta đó." Nàng hạ cho ta một mệnh lệnh dịu dàng, ngẫm ngợi đôi lát, lại nói, "Kiếp sau, ta chắc chắn sẽ không phải công chúa, chỉ là một cô gái váy vải trâm gỗ con nhà thường dân mà thôi... Huynh thì quá nửa sẽ là một thư sinh bận áo dài trắng... Một hôm nào đó, ta xách giỏ đi hái dâu, huynh tay cầm roi tơ, cưỡi ngựa quý, đi qua con đường ruộng nơi ta đến hái dâu, nhặt được bông hoa điền ta đánh rơi..."

Nàng tưởng tượng cảnh tượng lúc ấy, khóe miệng không khỏi nở hé nụ cười. Ta cũng cười theo, song vẫn không quên nhắc nhở: "Nếu công chúa là cô gái hái dâu váy vải trâm gỗ thì chắc chắn sẽ chẳng dư tiền mà mua hoa điền đâu."

"Vậy à..." Nàng phiền não nhíu mày, rất lấy làm thất vọng khi cảnh tượng thường được miêu tả trong thi từ này chẳng dễ gì thực hiện. Suy đi nghĩ lại, nàng vẫn chưa chịu từ bỏ tình tiết xếp đặt ban đầu, đưa ra một phương án giải quyết: "Ta có thể dậy sớm về muộn, hái thêm chút lá dâu, kiếm nhiều thêm ít tiền, vậy là mua được hoa điền rồi."

Một ý nghĩ lóe lên trong đầu, ta cố ý trêu nàng: "Vậy người nhất định phải cố lên đấy, không ngủ không nghỉ liền mấy ngày đêm, hái thêm nhiều lá dâu, kiếm nhiều tiền một chút, mới đủ mua hai hộp hoa điền..."

Nàng lấy làm khó hiểu: "Sao lại phải mua hai hộp?"

"Một hộp người dán lên mặt, hộp còn lại rắc lên con đường thần chuẩn bị đi qua chứ sao." Ta nghiêm chỉnh giải thích, "Vì người nóng lòng muốn lấy thần nên chỉ làm vậy mới có thể bảo đảm thần sẽ nhặt được bông hoa điền người 'đánh rơi'... Ái ui..."

Tiếng "ái ui" này là bởi nàng hung dữ cấu ta.

"Ai muốn lấy huynh?" Nàng không cam lòng hỏi vặn lại.

Ta cười, đáp: "Ồ, thế hóa ra vừa nãy là thần nằm mơ, mơ thấy có người hỏi thần có bằng lòng bái đường với nàng không..."

Nàng vừa thẹn vừa giận, đạp ta một cước không nhẹ không nặng, sau đó xoay người xây lưng về phía ta, còn cố gắng kéo xa khoảng cách, giả bộ tức giận không để ý tới ta.

Bấy giờ ta mới nín cười, gọi khẽ nàng hai tiếng, nàng vẫn bất động, ta bèn mon men lại gần nàng, dịu dàng nói bên tai nàng: "Được rồi, thần thừa nhận, là thần nóng lòng muốn cưới người nên cả ngày cưỡi ngựa xớ rớ sau lưng người... Còn cầm một cái quạt to, ra sức quạt gió về phía người..."

Nàng quả nhiên kinh ngạc, không nhịn được mở miệng: "Sao lại phải quạt gió?"

"Vì muốn hoa điền của người mau chóng rơi xuống chứ sao."

Nàng phì cười, rốt cuộc cũng chịu xoay người trở lại đối mặt với ta: "Kiếp sau mà huynh còn huyên thuyên chọc tức ta như thế, ta sẽ phạt huynh quỳ gạch vỡ hằng ngày."

Ta ra chiều đau buồn, than thở: "Thảm vậy cơ à? Kiếp này thần cũng đành chịu, nhưng chẳng lẽ kiếp sau cũng bị người nô dịch?"

Đại khái là lo lời nói mới rồi làm tổn thương tự tôn của ta, nàng lập tức bổ sung: "Ta nói là huynh chọc tức ta ta mới đối xử với huynh như thế, huynh ăn ở tử tế thì ai hành hạ huynh làm gì?"

Thấy ta không bày tỏ thái độ gì, nàng lại miêu tả cho ta nghe một tiền đồ tốt đẹp: "Ta sẽ rất tốt với huynh... Lúc huynh học bài, ta sẽ đốt lư hương cho huynh; lúc huynh viết chữ, ta sẽ mài mực cho huynh; lúc huynh vẽ tranh, ta sẽ pha màu cho huynh... Khi nào huynh mệt mỏi, muốn hoạt động gân cốt, múa kiếm hoặc chơi ném bình, ta sẽ ở bên đàn không hầu cho huynh..."

Tưởng tượng cảnh đó, ta không khỏi bật cười: "Ồn ào chết mất."

Nàng trợn mắt nguýt ta: "Cái đồ đàn gảy tai trâu!"

Hứng thú cũng không vì thế mà giảm bớt, nàng lại ngửa mặt nhìn lên trên, chúm chím mơ mộng, "Thanh minh hàn thực, chúng ta cùng ra ngoài du xuân ngắm hoa; thất tịch trung thu, chúng ta có thể cùng ngồi dưới hiên nhà ngắm trăng xem sao... Những lúc như vậy, huynh nhất định sẽ nổi hứng làm thơ, vậy ta sẽ..."

Ta không đợi nàng nói hết đã lập tức tiếp lời: "Người ngồi bên cạnh ăn khoai sọ."

Nàng ngồi dậy, hai tay giơ một cái gối gấm lên, đập loạn xuống đầu xuống mặt ta, phẫn nộ nói: "Ta là nói ta sẽ xướng họa cùng huynh!"

Ta vốn định tiếp tục chòng ghẹo nàng, nhưng đã cười đến hết hơi nói tiếp. Nàng trừng ta hồi lâu, sau cùng khóe miệng nhếch lên, vẻ giận rốt cuộc chẳng giữ được nữa, tức thì mất tăm, nàng lại nằm xuống bên cạnh ta, ôm một cánh tay ta, vùi mặt vào ống tay áo ta, cũng cười không dứt.

Nghe chuỗi tiếng cười lanh lảnh của nàng, nụ cười của ta dần tan biến trong khoảng không nơi ánh mắt nàng chẳng chạm đến.

Mấy ngày nay, ta đã thấy nàng rơi quá nhiều lệ, thật mừng xiết bao khi bây giờ chúng ta vẫn còn có thể có một khoảng thời gian vui vẻ như thế này, hi vọng cái cuối cùng ta để lại cho nàng là nét mặt tươi cười rạng rỡ của ta, còn những bi ai và đau đớn không thể nào xóa nhòa kia, hãy tạm thời để chúng chìm xuống đáy lòng, trước khi ta rời khỏi nàng, tuyệt đối không thể để nàng nhìn thấy trong con ngươi ta.

Sau đó nàng cười suốt, cho đến khi mỏi mệt mới mơ mơ màng màng thiếp đi trong lòng ta.

Ta ôm nàng, nhưng không nhắm mắt ngủ. Đợi đến khi trăng mờ sao đổi, đèn tắt khói lụi, ta lặng lẽ đứng dậy, định rời đi bây giờ, song lại phát hiện ra một đoạn ống tay áo đang lót làm gối dưới má công chúa, không tiện rút ra.

Ta định nâng đầu nàng lên rồi mới dời tay áo đi, nhưng lại nghĩ gần đây tinh thần nàng không an, ngủ dễ bừng tỉnh, động chạm như vậy quá nửa sẽ khiến nàng tỉnh lại. Ta bèn một tay để nguyên vị trí cũ, tay kia cởi vạt áo ra, rút tay này ra trước, cẩn thận rụt người thoát đi tấm áo trong này, cuối cùng mới trượt bàn tay bất động ra khỏi tay áo công chúa đang gối.

Làm vậy, ta có thể thoát thân rời đi, mà công chúa cũng vẫn có thể gối ống tay áo ấy mà ngủ tiếp.

Ta đứng lặng trước giường nàng hồi lâu, lặng im ngắm nàng, muốn khắc sâu dáng vẻ nàng lúc này vào tâm khảm.

Chốc sau, tiếng đồng hồ nước lại vang lên, đã là canh tư, ta phải rời đi.

Chậm rãi cúi người, ta in lên vầng trán nàng một nụ hôn mềm nhẹ. Nàng như cảm nhận được, rèm mi thoáng rung rung, nhưng đến cùng vẫn không tỉnh lại. Tay vô thức xoa xoa vạt trước tấm áo suông, nàng lại nghiêng mình kề về phía đó, tựa như vẫn đang tựa trong lòng ta.

Gối lên tấm áo suông còn vương hơi ấm của ta, bờ môi nhoẻn nụ cười nhẹ nhàng, vẻ mặt nàng ngủ say yên bình điềm tĩnh nom như trẻ con vậy.

Đó là hình ảnh cuối cùng nàng để lại cho ta trong cuộc đời này.

Năm ấy, nàng hai mươi lăm tuổi.


7. Thục phi

Ta trở lại Hàn lâm đồ họa viện, làm một nội thị hoàng môn tầm thường, làm cùng một công việc như khi còn niên thiếu, ngày ngày lặng lẽ sắp xếp tranh họa, xử lý tạp vụ cho các họa sư, hết thảy như chẳng có gì khác biệt, trừ việc biết rằng thi thoảng mình đi qua ai người ấy sẽ chỉ trỏ sau lưng ta.

Kể từ lúc trở về Tiền tỉnh, ta chưa một lần gặp lại kim thượng, nhưng đến tháng Tám năm Gia Hựu thứ bảy, ngài bỗng tự mình tới Họa viện tìm ta, đi tới như dạo chơi, bên người chỉ dẫn theo hai cận thị.

Ngài triệu ta vào một phòng vẽ yên tĩnh, xua lui người hầu, mệnh ta đóng kín cửa rồi mới mở miệng hỏi: "Ngươi và Thôi Bạch là bạn tốt phải không?"

Ta gật đầu thưa dạ, sau đó, ngài chầm chậm lấy từ trong tay áo ra một cuộn văn thư đưa cho ta, không nói một lời.

Ta nhận lấy mở ra xem, không khỏi kinh hãi – đó là bức thiếp ướm lời ta thay Thôi Bạch gửi cho Thu Hòa, dùng trong ăn hỏi, bên trong viết tên húy ba đời và bát tự sinh nhật của Thôi Bạch.

"Hiện giờ Đổng nương tử đang ốm rất nặng, nằm liệt giường không dậy nổi, một nội nhân sắp xếp lại tráp hộp cho nàng đã phát hiện ra thiếp ướm lời này trong góc sâu nhất." Kim thượng mặt không biến sắc nói.

Ta lập tức quỳ xuống, dập đầu nói: "Đổng nương tử tuy từng có hôn ước với Thôi Bạch nhưng đó là vào trước khi nương tử hầu hạ quan gia, sau đó họ hoàn toàn không qua lại nữa, mong quan gia minh giám, chớ giáng tội họ."

Kim thượng nhìn ta, hỏi hờ hững: "Thiếp ướm lời này là ngươi mang vào cung?"

Ta thừa nhận, cúi đầu đáp: "Thần tự biết hành động này vi phạm cung quy, tội không thể tha, xin quan gia trách phạt, chỉ mong quan gia khoan thứ cho Đổng nương tử và Thôi Bạch, đừng truy cứu chuyện này."

Đoạn, ta chắp tay hành lễ với ngài, rạp mình bái lạy.

Ngài thở dài, nói: "Ngươi hãy bình thân đi. Hôm nay ta tới đây chỉ là để chứng thực chuyện này, không phải để truy cứu xử phạt ai."

Ngài thu lại bức thiếp trong tay ta, tự mình xem, bất đồ hỏi ta: "Bức thiếp này đưa cho nàng khi nào?"

Ta bẩm đúng sự thật: "Cuối năm Khánh Lịch thứ bảy ạ."

"Cuối năm Khánh Lịch thứ bảy..." Kim thượng như đăm chiêu điều gì. Đại khái là nhớ đến biến cung loạn xảy ra sau đó, ánh mắt ngài ảo não quá đỗi, nhân quả trong đó đối với ngài cũng chẳng quá khó khăn để suy rõ.

"Khó trách, nhiều năm qua nàng vẫn luôn không vui..." Ngài lẩm bẩm, sau đó bảo ta lấy hộp diêm tới, châm lửa đốt thiếp ướm lời, lặng thinh nhìn nó hóa thành tro bụi, rồi đứng dậy đi ra ngoài.

Thấy bước chân ngài loạng choạng, ta tiến lên dìu ngài, ngài cũng không cự tuyệt, để ta dìu đỡ tới gần nhà hông mé tây Họa viện, lại nghe phía trước cách đó không xa có tiếng người ồn ào như đang tranh luận việc gì.

Người nói là hai vệ sĩ. Cận thị đi cùng định tiến lên nhắc nhở họ quan gia giá lâm, song kim thượng khoát tay ngăn lại, tự mình bước lên trước hai bước, nấp sau một cột trụ hành lang, nghe hai vệ sĩ trò chuyện.

Vệ sĩ Giáp nói: "Đời người nghèo sang là do số. Số mạng có thời ắt sẽ có, số mạng chẳng đến chớ cưỡng cầu, ấy là danh ngôn chí lý, không thể không tin."

Vệ sĩ Ất bèn cãi: "Nói vậy không đúng. Người trong thiên hạ nghèo sang là do quan gia quyết định. Hôm nay anh làm tể tướng, ngày mai quan gia hạ một thánh chỉ là có thể lập tức tước chức giáng anh xuống làm thất phu bình dân: Hôm nay anh giàu ngang cả nước, ngày mai quan gia không vui, có thể tịch thu hết sạch tài sản của anh đến manh chiếu cũng chẳng còn. Thế nên quan gia mới là thiên hạ chí tôn, có quyền sinh sát ban đoạt."

Hai người tiếp tục tranh luận, không ai thuyết phục được ai, cãi đến đỏ mặt tía tai. Kim thượng nhìn trong mắt, cũng không xuất hiện phán xét mà quay trở lại phòng vẽ, mệnh ta lấy bút mực phong thư tới, tự tay ngự phê: "Ai tới trước, bảo tấu cấp sự (*) báo lại gia ân." Hai bức cùng một câu, chia ra bỏ vào bao thư, sau đó gọi hai vệ sĩ kia tới, trước mệnh Ất mang một bao tới Nội Đông Môn ty, chờ một lúc, ước đoán Ất đi được nửa đường rồi, lại mệnh Giáp mang bao thư còn lại đi kế sau.

(*) Bảo tấu là bảo đảm và tiến cử, bảo tấu cấp sự là chức quan tiến cử người dùng cho hoàng đế.

Kim thượng nán lại trong sân Họa viện chờ. Chiếu theo an bài của ngài, hẳn phải là Ất tới trước, đợi Nội Đông Môn ty xác nhận rồi gã sẽ được gia ân bổ quan, nhưng lát sau, Nội Đông Môn ty phái người tới bẩm, ấy vậy mà lại bảo tấu gia ân cho Giáp. Kim thượng ngạc nhiên, hỏi nguyên do trong đó, câu trả lời là Ất chạy quá nhanh, đến nửa đường bị trẹo chân, kết quả để Giáp vượt mặt, thế nên người tới trước là Giáp.

Kim thượng nghe rồi im lặng hồi lâu, sau cùng thở dài thườn thượt: "Quả nhiên do số!"

Hôm sau, ngài lệnh hàn lâm học sĩ Vương Khuê thảo chiếu, chính thức lập con nuôi Triệu Tông Thực làm hoàng tử, ban tên "Thự" cho hoàng tử. Nghe nói Vương Khuê từng hỏi ngài có muốn chờ thêm, xem xem liệu tần ngự hậu cung có thể sinh hạ hoàng tử hay không, kim thượng ngán ngẩm đáp: "Nếu trời chịu cho trẫm con trai thì Dự vương đã chẳng chết yểu."

Sau khi phát hiện sự tồn tại thiếp ướm lời, kim thượng chẳng những không trách tội Thu Hòa mà còn thăng cô làm sung viện trong tháng Chín. Hoàng tử đã lập, kim thượng theo lễ chế ngự giá minh đường (*) ở ngoại ô, cúng tế trai giới. Trong khoảng thời gian ấy, bệnh tình Thu Hòa trở nặng, không đợi được kim thượng về cung đã từ trần. Lúc hấp hối, cô khẩn cầu hoàng hậu đừng sai người báo tin bệnh mình nguy kịch cho kim thượng, nói: "Thiếp bất hạnh chết sớm, không có phúc tiếp tục hầu hạ quan gia và hoàng hậu. Mấy ngày nay quan gia bận bịu việc nước, lại đang trong kỳ trai giới, xin chớ nói quan gia hay chuyện này, tránh ngài ưu phiền khổ sở, tổn hại tâm thần."

(*) Công trình kiến trúc long trọng nhất đế vương xây thời cổ đại, là nơi tổ chức những hoạt động cúng tế quan trọng.

Hoàng hậu ứa lệ bằng lòng, không báo tin dữ đến trai cung.

Kim thượng hồi cung, thấy Thu Hòa đã hương tiêu ngọc vẫn, chẳng thể hồi sinh, tức thì sầu bi, ngừng lên triều đích thân khoác áo gai để tang cô, khóc rống trước linh cữu. Lúc truy điệu, kim thượng tuyên bố truy phong Thu Hòa làm uyển nghi, qua hai ngày, kim thượng càng thêm đau buồn thương tiếc, lại truy phong Thu Hòa làm thục phi, còn đặc biệt thăng bốn người gồm cha cô cùng em cháu ông làm quan.

Có lẽ kim thượng vẫn cảm thấy như vậy chưa đủ để bày tỏ mong muốn bù đắp thiệt thòi cho Thu Hòa, ngài lại mệnh hạ thần định thụy hiệu cho Thu Hòa, đó là việc xưa nay chưa từng có, quốc triều chỉ có hoàng hậu mới có thụy hiệu, phi tần chưa bao giờ được hưởng đãi ngô này, hơn nữa, kim thượng còn đồng thời tuyên bố hành sách lễ thục phi cho Thu Hòa, ngày hạ táng dành cho cô lỗ bộ nghi trượng mà chỉ người có quân công mới được hưởng.

Sau Ôn Thành, ngài chưa từng thể hiện buồn thương sâu nặng như vậy với sự qua đời của bất kỳ tần ngự nào, điều này lại khiến Tư Mã Quang chú ý. Y dâng tấu ra sức can gián kim thượng bỏ việc thụy hiệu và sách lễ cho Đổng thục phi, ngày hạ táng cũng không cấp lỗ bộ, phàm tổ chức tang sự tất sẽ có hao tổn, không cần tận lễ nhất phẩm... "Lấy đó hiển minh bệ hạ nhẹ tình nữ sủng coi trọng con dân."

Kim thượng không tiếp nhận gián ngôn của Tư Mã Quang ngay, làm trong ngoài kinh thành bàn tán xôn xao, đều suy đoán xem lần này vua tôi ai sẽ là người thỏa hiệp. Sau, nghe nói người phá vỡ bế tắc ấy là hoàng hậu, bà khuyên kim thượng: "Thục phi thùy mị hiền hậu, tính tình không màng danh lợi, không tranh với đời. Khi em ấy còn sống, bệ hạ từng nhiều lần muốn thăng vị cho em ấy, mà lần nào em ấy cũng chối từ, cũng là bởi ngưỡng mộ thánh đức của bệ hạ nên một lòng tuân theo tác phong cung kiệm quả dục của bệ hạ. Mà nay bệ hạ gia ân đến tận bậc này, thục phi hiền đức, đương nhiên hoàn toàn xứng đáng, song ân sủng bệ hạ quá thịnh lại chẳng phải điều em ấy mong cầu.

Nếu thục phi còn tại thế, tất sẽ lại kiên quyết từ chối sách lễ, mà thụy hiệu lỗ bộ, thục phi dưới suối vàng nếu hay cũng sẽ càng khó an lòng."

Kim thượng hồi tưởng tác phong khi Thu Hòa còn tại thế, cũng đồng ý với quan điểm của hoàng hậu, bấy giờ mới từ bỏ chuyện sách lễ thụy hiệu lỗ bộ, không nhắc tới nữa.

Sau chuyện của công chúa, tâm lực kim thượng đã kiệt, già đi rất nhiều. Hiện giờ Thu Hòa qua đời, đối với ngài lại là một lần đả kích nặng nề nữa, tàn phá sức khỏe của ngài, huống chi, kể từ lúc lập xong hoàng tử, ngài tựa hồ chẳng còn thiết tha gì với nhân sinh. Sức khỏe ngày một xấu đi, tinh thần ngài cũng ngày một sa sút, có lần ta trông thấy ngài từ xa ngoài Tập Anh Điện, phát hiện ngài võ vàng hốc hác, râu tóc điểm bạc, thân hình hoàn toàn là dáng vẻ già cả, mà kỳ thực ngài lúc này cũng mới chỉ năm mươi ba.

Tháng Mười một năm ấy, trong cung truyền ra tin tức Lý Vĩ phục chức phò mã đô úy. Nghe nói đây là ý định kim thượng nói với công chúa khi nằm trên giường bệnh, trước sau ngài vẫn luôn hi vọng con gái hồi tâm chuyển ý, tiếp tục làm dâu nhà họ Lý. Mà công chúa cũng bằng lòng hợp lại với Lý Vĩ trên danh nghĩa, nhưng yêu cầu được tiếp tục ở lại trong cung, không trở về phủ công chúa chung sống với Lý Vĩ.

Ta có thể đoán được suy nghĩ của nàng. Nàng đã sớm chẳng còn hi vọng có thể nên duyên với bất kỳ ai, thế nên để Lý Vĩ khôi phục danh vị phò mã cũng chẳng phải chuyện khó chấp nhận, miễn là thân phận phu quân của hắn vẫn chỉ dừng lại ở trên danh nghĩa.

Vì vậy, kim thượng lập tức hạ chỉ, tiến phong Nghi quốc công chúa làm Kỳ quốc công chúa; Kiến Châu quan sát sứ, tri Vệ Châu Lý Vĩ thăng làm An Châu quan sát sứ, phục chức phò mã đô úy.

Đêm Tân Mùi tháng Ba năm Gia Hựu thứ tám (*), kim thượng băng hà tại Phúc Ninh Điện.

(*) Tức ngày 29 tháng 3 âm lịch năm 1063.

Ban ngày hôm ấy, người trong cung không hề cảm thấy ngài có gì không ổn, tuy có bệnh trong người, song ăn uống sinh hoạt của ngài hãy còn rất yên bình. Ban đêm đi ngủ không được bao lâu, ngài đột nhiên tỉnh giấc, kêu người hầu lấy thuốc, lại luôn miệng giục cận thị lập tức cho vời hoàng hậu tới.

Theo lời người hầu trong Phúc Ninh Điện kể lại, lúc hoàng hậu vào điện, kim thượng đã bải hoải rệu rã, đến nói cũng chẳng nên lời, trông thấy hoàng hậu, nước mắt ngài chảy xuống, dùng ngón tay chỉ vào tim mình.

Hoàng hậu vội cho gọi y quan đến chẩn bệnh, thử hết mọi phương pháp cấp cứu đốt ngải, dâng thuốc, song vẫn hết đường xoay chuyển. Hoàng hậu luống cuống, cuối cùng chỉ đành ngồi ở đầu giường ngài, ôm ngài, nhỏ giọng rủ rỉ bên tai ngài vài lời người khác không cách nào nghe rõ.

Đến nửa đêm, kim thượng buông tay hoàng hậu trong ánh mắt rưng rưng của bà, vĩnh biệt cõi đời.

Sau khi y quan xác nhận kim thượng băng hà, nội thần trong điện muốn mở cửa cung triệu phụ thần vào, lúc này hoàng hậu lau sạch nước mắt, đứng dậy, nghiêm giọng quát ngăn: "Lúc này há có thể mở cửa cung giữa đêm!" rồi mật dụ phụ thần vào cung ngay khi hửng sáng.

Kế tiếp, bà gọi nội thần hầu hạ kim thượng ăn uống sinh hoạt, mặt không biến sắc, tỉnh rụi phân phó: "Ban đêm quan gia muốn ăn cháo, ngươi mau đến ngự trù lấy lại đây."

Nhìn quanh trong điện, bà phát hiện ra y quan đã rời đi, lập tức sai người đi gọi lại y về, sau đó bảo vài nội thần trông chừng y quan, không cho phép y tự ý rời khỏi Phúc Ninh Điện nửa bước.

Sau đó, chuyện bà dẫn dắt Thập Tam Đoàn Luyện Triệu Thự lên ngôi trở thành truyền kỳ lưu truyền khắp trong ngoài triều đình.

Sau khi hoàng đế băng hà, hoàng hậu ém đi không phát tang, chỉ bí mật vời Triệu Thự vào cung. Ngày kế, bà tuyên triệu phụ thần đến Phúc Ninh Điện kiến giá. Đám người tể tướng Hàn Kỳ tới Phúc Ninh Điện, vén rèm định vào, nội thị lại bảo họ: "Hoàng hậu đang ở đây."

Hàn Kỳ dừng bước, hoàng hậu ở sau rèm nức nở báo tin quan gia đã về cõi tiên, chúng thần lập tức quỳ rạp xuống khóc bái. Hoàng hậu thoáng nén tiếng thổn thức, hỏi Hàn Kỳ: "Bây giờ phải làm thế nào đây tướng công? Mọi người đều biết cả rồi đấy, quan gia không có con trai."

Hàn Kỳ đáp: "Hoàng hậu không thể nói thế được, hoàng tử đang ở đông cung, sao không tuyên vào?"

Hoàng hậu nói: "Nó chẳng qua chỉ là tông thất, lại không có danh phận thái tử, lập nó, về sau liệu có ai tranh chấp hay chăng?"

Hàn Kỳ trả lời như chém đinh chặt sắt: "Hoàng tử được hoàng đế hạ chiếu lập, cũng là người kế thừa duy nhất, kẻ khác sao dám dị nghị!"

Lấy được đáp án này, khóe miệng hoàng hậu khẽ nhếch, ra hiệu cho người hầu vén rèm rồi ngả bài với Hàn Kỳ: "Hoàng tử đã ở đây rồi."

Rèm trướng cuốn lên, đám người Hàn Kỳ sửng sốt phát hiện ra hoàng tử Triệu Thự đã đứng bên cạnh hoàng hậu, vẻ mặt hoàng hậu bình tĩnh, mà thần sắc hoàng tử lại vô cùng sầu lo.

Dưới sự ủng hộ nhất trí của phụ thần, Triệu Thự lên ngôi hoàng đế, tôn hoàng hậu Tào thị làm hoàng thái hậu.

Triệu Thự ốm yếu nhiều bệnh, lại nhạy cảm nghĩ nhiều, đột ngột đảm đương trọng trách này, nhất thời khó lòng chịu đựng được gánh nặng nhường ấy, lo nghĩ thành tâm bệnh, thường xuyên gào thét chạy loạn trong cung, không thể lên triều. Trải qua bàn bạc, phụ thần mời hoàng thái hậu buông rèm chấp chính. Thế là, trong khoảng thời gian hoàng đế đổ bệnh, hoàng hậu ngự trong tiểu điện Nội Đông Môn, đối mặt với trọng thần cả triều, định miếu hiệu cho hoàng đế là "Nhân Tông". Ngày Giáp Ngọ tháng Mười năm Gia Hựu thứ tám (*), hạ táng Nhân Tông hoàng đế tại Vĩnh Chiêu Lăng.

(*) Tức ngày 27 tháng 10 âm lịch năm 1963.

Hôm ấy, ta cũng có mặt trong số nội thần đưa tang, đợi đến lúc trở lại Tuyên Đức Môn, trời đã nhá nhem, cửa cung đang đóng dở, lại thấy một nội thị vội vã chạy từ trong cung ra, nói với sứ thần gác cổng: "Lúc trước hoàng thái hậu đã phân phó, tạm thời giữ cửa này lâu thêm chốc lát, chờ Trương tiên sinh trở lại."

Ta nghe thấy, không khỏi lên tiếng hỏi nội thị kia: "Trương tiên sinh anh nói là Trương Bình Phủ tiên sinh ạ?"

Nội thị trả lời: "Đương nhiên là ông ấy rồi. Hôm nay hoàng thái hậu hạ chỉ, thăng ông ấy làm nội thị tỉnh áp ban. Mấy ngày trước đã phái người vời ông ấy về, tính ra hôm nay sẽ trở lại nên phân phó giữ cửa chờ ông ấy."

Vừa dứt lời đã nghe thấy ngoài cửa vọng tới tiếng vó ngựa, ta quay đầu lại nhìn, thấy một người thân mặc đồ tang đang giục ngựa phóng tới, vóc dáng cao lớn, mắt mày thanh bạch, chính là Trương tiên sinh chúng ta vừa nhắc đến.

Thầy xuống ngựa trước Tuyên Đức Môn, nội thị trong ngoài cửa cung nhận ra là thầy, lập tức ùa tới, có người thỉnh an, có người dắt ngựa, có người phẩy phất trần phủi bụi cho thầy, ai nấy đều tranh nhau lấy lòng. Mà thầy vẫn bình tĩnh như thường, chỉ lịch sự mỉm cười với họ, sau đó ngẩng đầu ngước mắt, sải bước đi về phía Nhu Nghi Điện.

Mặt trời ngả về tây, dát lên tường đỏ ngói xanh san sát một lớp vàng óng. Ta náu mình trong bóng tối dưới chân tường cung, đưa mắt nhìn Trương tiên sinh đi vào ráng chiếu hoàng kim giữa chín tầng cung khuyết, dần ý thức được, đối với hoạn giả trong hoàng thành, đây chính là khởi đầu của thời đại Trương Mậu Tắc.


8. Đào tơ

Hoàng thái hậu Tào thị chấp chính mười ba tháng rồi thu rèm hoàn chính, hoàng đế Triệu Thự bắt đầu lên triều.

Trong thời kỳ thái hậu buông rèm, nhập nội đô tri Nhậm Thủ Trung thường nói xấu hoàng đế trước mặt thái hậu, đến lúc hoàng đế tự mình chấp chính, ông ta lại đổi phắt sang nịnh bợ ngài, bịa đặt bôi nhọ thái hậu, ý chỉ thái hậu không muốn hoàn chính, thậm chí còn có lòng phế lập, làm hoàng đế sinh khúc mắc trong lòng, thậm chí còn ngừng vấn an hằng ngày, công khai biểu lộ bất mãn với thái hậu.

Trọng thần trong triều thấy hai cung không hòa thuận, đều liên tiếp dâng tấu, khuyên hai bên hòa giải, mà Tư Mã Quang ngoài khuyên can còn viết sớ dằng dặc hơn ngàn lời hặc Nhậm Thủ Trung, liệt kê cụ thể hơn mười tội trạng của ông ta bao gồm kết đảng kiếm chác, nhận hối lộ, ức hiếp người ngang hàng, tham ô tài vật, bịa đặt tin vịt, ly gián hai cung, yêu cầu hoàng đế xử trảm. Dưới sự dẫn dắt của y, đám ngôn quan Lữ Hối liên tục tiến ngôn, trước sau dâng mười mấy chương sớ, đều là sớ hặc tội, cuối cùng khiến hoàng đế hạ lệnh cách chức Nhậm Thủ Trung trục xuất khỏi kinh, điều đi Tân Châu.

Tuy Nhậm Thủ Trung đã bị trục xuất, song quan hệ của hoàng đế và thái hậu vẫn chưa phục hồi. Triệu Thự lạnh nhạt với thái hậu, lại dời bốn ấu nữ Nhân Tông để lại ra khỏi cung thất ban đầu, cho con gái mình vào ở. Hành động này khiến Tư Mã Quang đau lòng nhức óc, tức sùi bọt mép, dâng sớ chỉ thẳng hoàng đế vong ân phụ nghĩa, nói: "Thần xin lấy nhỏ nói lớn. Giả sử trong gác dân thường, nhà có một vợ và vài đứa con gái, có mười mẫu ruộng, sản nghiệp tấc vàng, về già chẳng có con trai, bèn nuôi con cháu tông tộc làm con nối dõi, người vừa mất, con y lấy được điền sản rồi, lập tức vứt mẹ bỏ em, khiến họ sầu lo căm phẫn, vậy hàng xóm hương thân sẽ nhìn con y bằng con mắt thế nào? Kẻ thất phu làm vậy còn bị làng xóm cười chê, huống hồ là thiên tử chí tôn, là tấm gương ngưỡng vọng của bốn bề! Đây sẽ là bước đầu khiến bệ hạ đánh mất nhân tâm."

Sau đó, Triệu Thự có vẻ hổ thẹn, có sự giảng hòa của nhóm phụ thần Âu Dương Tu và hoàng hậu Cao thị, mới bắt đầu vấn an thái hậu trở lại.

Trong lúc lạnh nhạt với thái hậu, Triệu Thự cũng đồng thời tỏ ý tôn sùng chiếu cố phụ mẫu thân sinh của mình. Cha ruột Triệu Thự là Nhữ Nam quận vương Triệu Doãn sau khi hoăng đã được truy phong làm Bộc vương, một năm sau khi lên ngôi, Triệu Thự hạ chiếu lệnh quần thần bàn bạc tổ chức lễ cúng tế Bộc vương. Nhóm tể tướng Hàn Kỳ và tham tri chính sự Âu Dương Tu chủ trương kiến nghị hoàng đế xưng Bộc vương làm hoàng khảo (*), bởi "con thừa tự nhận làm thừa tự, cha mẹ ruột cũng xưng cha mẹ", còn nhóm đài quan Lữ Hối, Phạm Thuần Nhân, Lữ Đại Phòng và gián quan Tư Mã Quang thì chủ trương xưng Nhân Tông làm hoàng khảo, Bộc vương là hoàng bá, nói "nước không hai vua, nhà không hai cụ", nếu hoàng đế tôn Bộc vương làm cha thì Nhân Tông biết đặt đi đâu?

(*) Người cha đã mất thì gọi là khảo.

Phe đài gián và phe tể chấp không ai nhường ai, dâng sớ tranh luận dài dặc, khiến trận tranh luận này kéo dài gần hai năm, sử gọi là "Bộc nghị". Trị Bình năm thứ ba, hoàng thái hậu gửi thư tay, cho phép hoàng đế gọi Bộc vương là cha, tôn Bộc vương làm Bộc An Ý hoàng, ba phu nhân của ông cũng được xưng hậu. Triệu Thự tức thì ban chiếu viết tay, nói: "Lễ xưng thân, ấy là cẩn tôn từ huấn." Đài gián thỉnh bãi chiếu lệnh, Triệu Thự bỏ ngoài tai, cuối cùng cách chức ba người Lữ Hối, Lữ Đại Phòng, Phạm Thuần Nhân điều ra ngoài.

Trong cuộc tranh luận này, thần tử trong triều nghiêng về phe đài gián nhiều hơn, phe tể chấp bị coi là tiểu nhân gian nịnh, nhất là Âu Dương Tu, người đã dựa vào kinh điển, cung cấp lý luận quan trọng cho hoàng đế xưng thân trong cuộc tranh luận này.

Triệu Thự nhiều bệnh, tại vị chưa đầy bốn năm đã băng hà, miếu hiệu "Anh Tông". Sau đó, người đăng cơ là trưởng tử hai mươi tuổi của ngài, đại hoàng tử Trọng Châm nay đã đổi tên là Triệu Húc.

Không lâu sau khi Triệu Húc lên ngôi, đối thủ chính trị kết oán với Âu Dương Tu vì sự kiện "Bộc nghị" đã triển khai công kích nhằm vào y.

Đầu tiên là Tiết Tông Nhũ, em họ phu nhân Tiết thị của Âu Dương Tu có thù riêng với Âu Dương Tu, tung tin vịt trong triều, nói y tư thông với con gái Ngô Sung, con dâu trưởng nhà y, ngự sử Bành Tư Trung, Tưởng Chi Kỳ liền mượn việc này hặc Âu Dương Tu.

Nhưng chứng cứ họ đưa ra lại rất thiếu sức thuyết phục. Nhũ danh của Ngô thị là "Xuân Yến", họ bèn tìm vài bài từ của Âu Dương Tu, nói trong đó vừa có "Xuân" lại vừa có "Yến", là ám chỉ tên của Ngô thị.

Trong chuyện này, hoàng đế Triệu Húc rất kiên định đứng về phía Âu Dương Tu, thậm chí còn mắng thẳng vào mặt Tưởng Chi Kỳ, nói: "Các ngươi đại sự chẳng nghị, lại chỉ chăm chăm bới móc chuyện khuê môn người ta!" Sau đó nhất nhất đuổi tất thảy đài quan hặc Âu Dương Tu khỏi triều đình, nhưng vẫn có đài quan tiếp tục luận việc Âu Dương Tu "tư thông với con dâu", mà Âu Dương Tu cũng nản chí ngã lòng, tự xin điều ra ngoài, hoàng đế không phê chuẩn, y bèn dâng sớ khẩn cầu thêm lần nữa.

Tháng Ba năm Trị Bình thứ tư, lúc ta mang tranh cuộn ngự dung Anh Tông mà họa sư Họa viện hoàn thành đến Bí các thờ phụng, vô tình gặp được Âu Dương Tu đi từ Bảo văn các ra ngoài. Nhiều năm không gặp, y vẫn liếc mắt nhận ngay ra ta, gọi ta vô cùng thân thiện: "Lương tiên sinh."

Xưa nay, y vẫn luôn dành cho ta và công chúa sự quan ái như một trưởng bối, khi hai ta bị ngôn quan công kích dữ dội, y chưa từng hùa theo đám đông chỉ trích chúng ta lấy một lần. Nay nghe y gọi vậy, trong lòng ta ấm áp, lập tức thi lễ với y, hỏi thăm: "Đã lâu không gặp, tướng công vẫn khỏe chứ ạ?"

Tham tri chính sự là phó tướng, bình thường mọi người cũng tôn xưng y là "tướng công". Nhưng Âu Dương Tu nghe thế lại lắc đầu, mỉm cười nói: "Kể từ hôm nay, ta đã không còn là tham tri chính sự nữa rồi, tiên sinh đừng gọi ta là 'tướng công' nữa."

Ta kinh ngạc bật thốt: "Nói vậy là sao?"

Âu Dương Tu đáp: "Kim thượng đã chấp nhận đơn từ chức của ta, bãi chức tham tri chính sự của ta, lệnh ta đi tri Hào Châu. Ngày mai là ta rời kinh rồi, thế nên ban nãy mới vào Bảo văn các, bái biệt Nhân Tông hoàng đế."

Trong Bảo văn các cất giữ ngự thư của Nhân Tông, cũng thờ cúng ngự dung của ngài, thần tử triều Nhân Tông rời kinh thường tới đây bái biệt.

Chuyện của Âu Dương Tu bị đài quan làm ầm làm ĩ, ta cũng đã được cho hay, giờ khắc này nghe y nói vậy, không khỏi tiếc nuối sâu sắc, nói: "Chuyện đài quan nói, kim thượng đã tra rõ là vu khống, biếm truất kẻ mưu hại, sao tướng công vẫn xin đi?"

Âu Dương Tu không nói kỹ nguyên nhân, chỉ đáp bằng một câu vỏn vẹn: "Ta chỉ là thấy mệt rồi thôi."

Ta nghe mà cảm khái, lại liên tưởng đến chuyện năm xưa ngôn quan nói y "trộm cháu", thở dài: "Tướng công cả đời chính trực không tránh né oán giận, tiếc là lại bị ngôn giả làm liên lụy."

Âu Dương Tu nghe vậy nhoẻn cười, nói: "Thuở thiếu thời ta từng mời tăng nhân xem tướng, tăng nhân nói ta, tai trắng hơn mặt, tên khắp thiên hạ; môi không chạm răng, vô cớ chịu báng", Hôm nay xem ra, câu ấy ứng nghiệm thật rồi."

Ta nghe xong cẩn thận quan sát y, quả nhiên phát hiện tai y trắng hơn mặt, môi có chạm răng hay không thì nhìn bên ngoài không thấy rõ được, không biết có ý gì, ta cũng chẳng tiện mở miệng hỏi y, bèn chỉ mỉm cười.

Cười với ta chốc lát, y thu lại nét cười, nghiêm mặt nói với ta: "Cả đời này ta quả thật đã bị lời ong tiếng ve làm liên lụy, hai lần bị tổn hại danh dự, cũng khiến tâm thân mệt mỏi, khổ chẳng nên lời, nhưng ta vẫn rất vui mừng, kiếp làm quan của ta được sống trong thời đại ngôn lộ rộng mở."

Ta ngẩn người, bắt đầu nghiền ngẫm lời y, còn y thì tiếp tục nói tiếp: "Lời đài gián nói hữu hiệu, trên có thể phòng ngừa quốc vương lạm dụng hoàng quyền, tể chấp độc đoán chuyên quyền, dưới có thể giám sát bách quan, quét sạch tác phong kỷ luật, khiến phường gian nịnh hủ bại không có chỗ ẩn thân, động chút là dâng tấu luận bàn, thực ra cũng là biểu hiện chính trị trong sạch, tuy rằng trong tranh đấu bè đảng không thể kiểm chặt chi tiết, thường bị đối phương dùng để mượn cớ định tội mưu hại. Trong đài gián quốc triều cố nhiên cũng có kẻ tiểu nhân lợi dụng chức quyền trả thù riêng, loại trừ phe đối lập, nhưng đa số là những quân tử không sợ quyền quý, không mưu tư lợi, ngay thẳng dám nói. Có họ, những quyền thần như Hạ Tủng mới không thể một tay che trời, nữ sủng như Ôn Thành mới không có cơ hội họa quốc, ngoại thích như Trương Nghiêu Tá khó mượn thế hậu cung gà chó lên trời, mà nội thần gian nịnh như Nhậm Thủ Trung càng không cách nào lộng quyền tham chính... Lời ong tiếng ve đương nhiên có tai hại của nó, nhưng vẫn tốt hơn là ngôn lộ tắc nghẽn. Nếu có một ngày, đài gián chỉ còn hữu danh vô thực, quốc vương mặc sức muốn gì làm nấy, khiến nữ sủng, cận thị, ngoại thích đều có thể nắm bắt cơ mật, can thiệp triều chính, hoặc giả trọng thần triều đình độc tài quyền bính, không tị hiềm thân thích, để đến nỗi ai cũng làm tới quan cao, kẻ đầy tớ phu xe cũng có thể làm bạn với vua, đạo đức tiêu vong, phong tục suy đồi, mà ngôn giả lại sợ cường quyền, vừa không thể độc lập có lời, vừa không dám chỉ trích sai lầm kẻ ngồi ngôi cao, bách tính dẫu có ý kiến cũng chẳng thể nói rõ, chỉ có thể hóa bất mãn với người mình cung phụng thành đầy bụng chê trách, lén lút truyền lưu... Như vậy thì vận số Đại Tống cũng đến lúc tận rồi."

Y trang nghiêm quay đầu, nhìn Bảo văn các sau lưng, mắt lộ vẻ cảm hoài lưu luyến, sau đó lại nói: "Cũng may ta gặp được quân chủ ngửa mặt sợ thiên biến, cúi đầu ngại tiếng người, nghiêm khắc với bản thân, lại không mù quáng chẳng biết phân biệt phải trái, biết người thiện lành, lấy lễ đãi sĩ, chịu nghe can gián, mở rộng ngôn lộ quốc gia, tất cả mọi người đều chịu ngôn giả giám sát, không ai có thể tùy ý làm bậy, độc đoán chuyên quyền, thế nên, ta rất mừng được sinh ra trong thời đại có thể xưng là trời yên biển lặng này..."

Nói tới đây, y thoáng dừng lại, dụng tâm nhìn ta rồi mới nói tiếp: "Dẫu cho chúng ta đều từng bị thời đại ngộ thương."

Bất kể là vào năm cuối cùng Nhân Tông tại thế hay là dưới thời trị vì của Anh Tông, công chúa đều sống cùng mẫu thân, tuy rằng trong phủ công chúa ở ngoài cung hãy còn có một vị phu quân trên danh nghĩa của nàng. Nhưng sau khi Triệu Húc đăng cơ, chuyện này đã xảy ra biến hóa.

Triệu Húc là người cháu công chúa rất yêu quý, từ nhỏ đã hợp tính với nàng. Không lâu sau khi lên ngôi, ngài đã phong công chúa làm Sở quốc đại trưởng công chúa, ban tước ấp cho nàng trở thành hoàng nữ tối cao đương triều. Thái độ của ngài với công chúa thoắt đem lại hi vọng mới cho Miêu nương tử, mấy lần tìm người thay mặt thuyết phục, xin hoàng đế cho phép vị đại cô cô này của ngài ly dị với dượng, tái giá với người khác. Nhưng Triệu Húc không đồng ý, nói thẳng với mẹ con công chúa: "Trước đây Nhân tổ (*) khôi phục danh vị phò mã đô úy cho Lý Vĩ là hi vọng cô có thể tiếp tục làm dâu nhà họ Lý, tuân theo phụ đạo nhân luân, phổ biến đức hiếu thiên hạ, hiển minh tài đức thuyền quyên vương bang, trở thành mẫu mực cho hoàng thất ta. Cô cô hiếu thuận với Nhân tổ thì nên vâng theo lệnh cha, nối lại tiền duyên với Lý Vĩ, toàn tâm toàn ý với nhà chồng, hôm nay há có thể vì Nhân tổ quy tiên mà mặc kệ di huấn, nảy lòng muốn cải giá với người khác? Nếu cô cô khăng khăng, Húc chẳng dám cản, nhưng xin cô cô nghĩ lại, cô và dượng không hòa thuận đã khiến Nhân tổ ôm mối hận suốt đời, nếu đoạn tuyệt với Lý thị, Nhân tổ dưới suối vàng hay biết, sẽ còn đau lòng đến mức nào?"

(*) Tổ ở đây là gọi ông nội, diễn giải đầy đủ ra thì là "ông nội Nhân Tông".

Công chúa im lặng, không phản bác, Triệu Húc lại đưa ra thêm một yêu cầu: "Cô cô mang danh phu thê với Lý Vĩ, không tiện ở lâu trong cung, người ngoài biết được cũng có lời chê trách. Không bằng quay trở về phủ công chúa, cầm sắt hòa hợp, mới là điều nên."

Dưới sự ra sức khuyên giải của ngài, công chúa rốt cuộc cũng bằng lòng, trở lại phủ công chúa theo ý ngài. Sau đó, Triệu Húc cũng tuyên bố xóa bỏ quy định "Nhà thượng chúa, hàng một bậc chiêu mục", đồng thời chính thức hạ chiếu yêu cầu về sau công chúa hạ giáng đều phải hành lễ với cha mẹ chồng, phụng dưỡng nhà chồng như con dâu nhà dân thường.

Nghe nói, lúc công chúa chuẩn bị lên xe quay lại phủ cũ, Triệu Húc đã khom người tạ lỗi với nàng, nói: "Xin lỗi, cô cô. Nhưng tất cả người trong hoàng thất đều như nhau, chẳng thể phóng túng dục vọng của mình, cũng không thể trốn tránh trách nhiệm của mình."

Có người hay ngồi lê đôi mách kể lại cho ta từ đầu chí cuối sự việc, vừa kể vừa quan sát vẻ mặt ta. Ta chỉ trầm mặc nghe, mặt không gợn sóng, trong lòng cũng chẳng xao động cảm xúc như họ mong đợi. Bởi ta biết, đối với công chúa, kết cục đã sớm định sẵn, tuổi hoa của công chúa đã kết thúc vào năm nàng hai lăm, cánh hoa tàn lụi nương thân chốn nào thực chất đã chẳng còn quan trọng.

Có thể tưởng tượng được, ở phủ công chúa, cuộc sống của nàng và Lý Vĩ tuyệt đối là "kính nhau như khách", cả hai người họ đều bị thương quá nặng, họ cũng sẽ không thử tu bổ lại quan hệ đổ vỡ, có thể giữ trạng thái yên lặng cho mình đã là tốt lắm rồi. Có lần, ta nghe một họa sư nói y nhìn thấy Lý Vĩ cõng tiểu công tử họ Lý trong vườn, hỏi kĩ lại, ta được biết, đó là con Vận Quả Nhi sinh hạ, công chúa không có đứa con của riêng mình, đương nhiên, rất có thể sẽ mãi mãi chẳng bao giờ có.

Mỗi dịp lễ tết, ta đều đến chân tường Tập Anh Điện, xem dải hoa công chúa cắt cho ta. Nàng cũng chưa từng nhỡ hẹn, ngày ấy vừa hửng sáng đã lập tức treo dải hoa lên ngọn cây đào, đợi đến lúc Tập Anh Điện mở cửa, ta đi vào trong sân, dải hoa ấy đã sớm vượt qua đầu tường, đón gió tung bay trên đầu cành, như một đàn bướm truy tìm hương thơm.

Năm này qua năm khác đều là như vậy. Nàng trở về phủ công chúa rồi cũng không bỏ thói quen này, bận nào cũng vào cung trước lễ tết một ngày, treo dải hoa lúc rạng sáng như lệ cũ.

Thất tịch một năm nọ, chẳng biết tại sao nàng tới chậm, đến gần trưa ta mới thấy đầu cành đào có dải hoa treo lên, là mắc vào một cành trúc, với lên cây đào treo sang.

Là công chúa tự mình treo ư? Ta rảo bước lại gần tường cung, loáng thoáng nghe thấy bên trong vọng ra tiếng ngọc bội lanh canh.

Ta ngẩn ngơ đứng đực tại chỗ, nhìn cành trúc kia lên xuống cao thấp, treo đóa hoa cắt từ từng miếng lụa màu lên ngọn cây đào đã qua kỳ đơm bông, khó mà dời bước hồi lâu.

"Lương tiên sinh!" Bỗng, có người từ Bí các đối diện chạy tới, cất giọng gọi ta.

Giọng cậu ta rất lớn, ta vẫn chưa thu lại tầm mắt, trông thấy cành trúc phía trên cây hoa rung rung, tiếp đó dải hoa mắc đầu cành rơi xuống.

Người nọ đã chạy tới bên cạnh ta, ta vội xoay người đối mặt với cậu ta, nhận ra cậu ta là Bạch Mậu Tiên đã lâu không gặp.

Năm đó, cậu ta cũng bị xử phạt sau sự kiện công chúa gõ cửa cung giữa đêm, bị giáng chức điều ra Tiền tỉnh làm tiểu hoàng môn Thư viện. Sau đó, Anh Tông đăng cơ, mấy công chúa trẻ tuổi vào cung ở, thiếu nội thần hầu hạ, Tiểu Bạch lại được điều vào Hậu tỉnh làm việc.

Tiểu Bạch hiện giờ đã trưởng thành thành một thanh niên tuấn tú, mặc công phục nội thị cấp cao, trong tay bưng vài quyển trục, thần thái phấn chấn.

"Khá lắm, tấn cấp rồi." Ta ngậm cười khen cậu ta.

Cậu khiêm tốn khom người với ta, mỉm cười đáp: "Đều nhờ công tiên sinh dạy dỗ."

Ta hàn huyên với cậu mấy câu, nhìn quyển trục trong tay cậu, thuận miệng hỏi: "Cái gì đây?"

"Công chúa đang học phi bạch, bảo tôi tới Bảo văn các lấy ngự thư của Nhân Tông hoàng đế về cho người làm mẫu." Tiểu Bạch trả lời.

Công chúa? Ta hơi sửng sốt, nhưng lập tức hiểu ra, ý cậu chỉ một vị trưởng công chúa nào đó cậu hầu hạ hiện giờ, bởi cậu vào hầu vị trưởng công chúa ấy triều Anh Tông nên đến giờ vẫn giữ thói quen nguyên bản, gọi người là công chúa – giống như ta vậy, công chúa trong miệng cậu ta chính là vị công chúa trong mắt trong lòng cậu.

"Công chúa luyện phi bạch khá lắm đấy ạ, thái hoàng thái hậu cũng thường xuyên dạy người, khen người có thiên phú..." Tiểu Bạch tiếp tục tự thuật tình hình công chúa của mình, trong mắt lóe rạng niềm hân hoan từ tận đáy lòng.

Ta bần thần nhìn cậu, hơi có cảm giác bất an.

Cậu không nhận ra, tiếp tục tự mình nói với ta hồi lâu, vẫn chẳng nhớ ra cần nói rõ cho ta hay vị công chúa ấy là ai, tựa như cho rằng đó là điều người trong thiên hạ đều tỏ tường.

Mãi sau, cậu rốt cuộc cũng ý thức được vấn đề thời gian: "Ôi, công chúa còn đang chờ tôi, tôi phải đi rồi. Tiên sinh bảo trọng!"

Không đợi ta trả lời, cậu đã hớn hở bưng ngự thư của Nhân Tông chạy đi. Ta bước lên vài bước, vốn định gọi cậu ta lại, kín đáo nhắc nhở phương thức chung đụng của cậu ta và công chúa, song cậu đã nhanh chóng biến mất ngoài cửa viện. Ta im lặng dừng bước, cũng nghĩ có lẽ mình khuyên nhủ sẽ chẳng được tác dụng gì. Năm ấy hoàng hậu và Trương tiên sinh chẳng phải cũng nhắc nhở ta đấy sao, nhưng mọi chuyện vẫn cứ xảy ra, vòng xoáy vận mệnh là cái chẳng thể trốn thoát.

Quay đầu lại nhìn lên đầu cành hoa đào, đã không còn thấy bóng dáng cành trúc đâu. Ta vốn tưởng công chúa đã rời đi, nhưng đứng lặng một hồi, lại nghe thấy gió nhẹ vượt tường chở sang một tiếng than thở như có như không.

Ta chậm rãi tiến lên, hai tay đặt lên bức tường đỏ son, quay mặt về phía có khả năng có sự tồn tại của nàng.

Có lẽ nàng đang ở ngay sau mặt tường này.

Có lẽ nàng cũng đang đặt tay lên tường, thăm dò phương hướng vị trí ta.

Có lẽ vào thời khắc này, lòng bàn tay đôi ta đang đối nhau, ánh mắt cũng đang xuyên qua lớp tường đỏ ngăn trở này lồng vào nhau... Gió nổi lên rồi, nàng có lạnh chăng? Ta đưa tay ra thế này, nàng có còn cảm nhận được chút hơi ấm nào chăng?

Ta rầu rầu ngửa mặt, nhìn về phía chân trời xa thẳm.

Vắt ngang trời thu vời vợi có ráng hồng ẩn hiện, đêm nay hẳn có thể thấy trăng ló sau mây, tinh tú ngời ngời. Nhưng thiếu đi gió vàng sương ngọc, nhiều thêm Ngân Hà xa xôi, lại có ai có thể bầu bạn bên nàng, cùng thưởng nến bạc trăng thu, cùng vượt giá lạnh cung khuyết?

Kể từ ngày đó, thời gian treo dải hoa càng ngày càng muộn, ta có dự cảm không lành, lưu ý hỏi thăm, mới biết công chúa đã thân mang bệnh nặng, thường đau buốt trong ngực, hư nhược yếu ớt, thi thoảng còn có hiện tượng ngất xỉu.

Mỗi dịp lễ tết, nàng vẫn kiên trì về cung treo dải hoa. Ta vẫn đến chờ từ sớm, tuy có thể phải đợi đến rất khuya, nhưng bất kể thế nào cũng đợi được.

Song, tiết Hoa Triêu năm Hi Ninh thứ ba này, ta chờ từ tảng sáng đến gần hoàng hôn mà vẫn chưa thấy dải hoa xuất hiện trên đầu cành, chỉ có hoa đào rợp tán, nghênh hướng gió xuân nở rộ tưng bừng.

Nàng nhất định là đã hồi cung, ta còn nghe người ta nói, hôm qua vào cung thành cuối cùng chính là xe liễn của nàng.

Mà sao dải hoa mãi vẫn chưa thấy?

Ánh mắt ta chăm chú cố định trên đầu cành đào, mỗi một lần cành hoa chập chờn, tim ta đều nổi trống ngực, mà sự thật thì lại chứng minh, ấy chẳng qua chỉ là gió xuân bỡn cợt hết trận này đến trận khác mà thôi.

Lúc màn đêm buông xuống, ta rốt cuộc cũng chờ được kết quả, giương trên đầu tường không phải dải hoa sắc màu mà là lá cờ trắng xóa, tầng tầng lớp lớp, như một con sóng cả bạc đầu ập xuống trước mặt.

Từ hậu cung vọng ra tiếng khóc bi thương, không lâu sau, cửa điện trong cung bật mở, rất nhiều nội thần chạy đi báo tin lẫn nhau: Sở quốc đại trưởng công chúa hoăng... Nàng mất vào mùa xuân năm Hi Ninh thứ ba, ấy là năm thứ tám sau khi đôi ta chia lìa.

Hoàng đế Triệu Húc sai người đưa linh cữu của nàng về phủ công chúa, sau đó đích thân giá lâm phủ đệ nàng, khóc thương truy điệu nàng.

Ngài truy phong công chúa làm Tần quốc đại trưởng công chúa, đồng thời mệnh phụ thần nghị thụy hiệu cho nàng, cuối cùng, ngài tự chọn hai chữ "Trang Hiếu", bởi "công chúa có hiếu với Nhân tổ".

Ngoài ra, ngài còn biếm Lý Vĩ đến Trần Châu, công bố với mọi người tội danh là "thờ chủ không công".


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen30h.Com