Truyen30h.Com

Co Thanh Be Milan Lady

1. Miện hoa

Sự kiện được gọi là Âu Dương Tu "trộm cháu" bị coi thành một vụ diễm tình bê bối, dần dần truyền vào trong cung, trở thành đề tài trà dư tửu hậu giết thời gian của trăm ngàn cung quyến. Có lần, Miêu chiêu dung nổi hứng nhắc đến với kim thượng, hỏi ngài có định cho Vương Chiêu Minh đi thẩm án không, chẳng ngờ sắc mặt kim thượng tức khắc đổi ngoặt, thu lại nụ cười, ngó lơ không đáp, sau đó Miêu chiêu dung không dám hỏi lại nữa. Ta lưu ý theo dõi, song không nghe ngóng thêm được sự tình có tiến triển gì tiếp sau, nghĩ hẳn là kim thượng hãy còn đang do dự.

Thất tịch đã cận kề, chư nương tử đề cử ty sức với kim thượng càng thêm chú tâm vào tóc tai mũ miện. Nữ tử quốc triều đều chuộng đội miện hoa, búi tóc ngày thường khá đơn giản nhưng mũ miện tô điểm thì nhất định phải thật lộng lẫy bắt mắt, nhất là vào các dịp lễ tết, hoa cài bao giờ cũng thêm thắt tơ vàng tuyết liễu, châu ngọc đầy đầu đọ sắc khoe hương.

Có một hôm, Du tiệp dư đến đúng lúc Thu Hòa vừa trang điểm xong cho Miêu chiêu dung. Tiệp dư quan sát chiêu dung một lượt rồi cười nói: "Tỷ tỷ thứ cho em nói thẳng, Thu Hòa chải tóc thì đẹp thật đấy, nhưng mà mũ miện phối cùng đơn giản quá, trang điểm chẳng khiến người ta thấy lóa mắt gì cả."

Miêu chiêu dung cũng nhìn mũ miện trên đầu Du tiệp dư, than: "Ta đang phát rầu ra đây, chẳng biết nên lấy châu báu gì làm miện nữa. Ta thấy châu trên miện hoa của em tuy không tệ, nhưng nếu ai kia bên Tường Loan Các mà dùng châu quan gia ban cho thì chỉ sợ bao nhiêu nổi trội cũng bị cô ả cướp sạch mất thôi."

Du tiệp dư nói: "Ôi đừng nói nữa. Bữa trước sau khi quan gia ban châu cho ả, tần ngự trong cung đều nhờ người bên Nội ty (*) ra ngoài mua cả, hoàng thân hào phú trong kinh trông thấy cũng tranh nhau đi mua, kết quả chỉ trong một tháng giá châu ngọc đã tăng lên gấp mười. Mấy viên vớ vẩn trên đầu em đây mua cũng mất đứt tám trăm xâu tiền rồi."

(*) Tên gọi chung của các cơ quan Đông môn ty, Hợp đồng bằng do ty, Quân đầu dẫn kiến ty thuộc Nội thị tỉnh thời Tống.

Miêu chiêu dung lấy quạt lụa che miệng, kinh ngạc: "Tám trăm xâu? Điên hết rồi đấy à!"

"Giá cả bây giờ nó thế đấy." Du tiệp dư bĩu môi, lại nói: "Nếu tám trăm xâu mà mua được hàng tốt thì cũng thôi, đáng tiếc là dẫu có trả giá cao, chất lượng hạt châu mua về thế nào cũng vẫn không bằng được ai kia, đến hôm thất tịch biết lấy gì mà so với ả?"

Miêu chiêu dung cúi đầu trầm ngâm, lát sau nói với tiệp dư: "So châu so ngọc chỉ sợ không ăn thua được với đằng ấy, chẳng bằng chúng ta tìm sang cái khác có khi lại hay hơn, phỉ thúy, đồi mồi, ngà voi gì đó, nhờ riêng bên Nội ty tìm loại thượng hạng mà mua, đến lúc đó làm thành miện đội ra ngoài, chưa chắc đã thua miện châu của ả."

Du tiệp dư gật đầu: "Tỷ tỷ nói có lý. Lần này tốn thêm chút tiền cũng chẳng sao, đã mua thì phải lựa cái tốt nhất, nhất định không thể để thua ai kia được, bằng không chúng ta chỉ còn nước trơ mắt nhìn ả xếp một con hồ ly tinh vào bên quan gia thôi."

Miêu chiêu dung cũng cho là như thế, mỉm cười quay sang hỏi Thu Hòa: "Thu Hòa, theo ý ngươi, lấy châu báu gì làm miện thì tôn sắc được cho ta? Phỉ thúy có ổn không?"

Thu Hòa không đáp, chau mày cúi đầu, quỳ sụp xuống trước mặt chiêu dung, nói: "Mong nương tử nghĩ lại, chớ tìm mua châu báu đắt đỏ làm đồ trang sức."

Miêu chiêu dung kinh ngạc: "Tại sao? Ngươi đứng lên đi đã, từ từ nói."

Thu Hòa vẫn quỳ đó, thưa: "Người trong kinh từ nhà giàu phú hào đến bình dân trên phố ai ai cũng coi cái trong cung truy tầm là trào lưu nhất thời. Hễ nghe cung quyến muốn tìm mua cái gì là tranh nhau hùa theo, làm vật giá tăng vọt. Trương nương tử thích ăn quất Giang Tây, dân gian nghe thấy, quất tức thì tăng giá, nghe nói hiện giờ giá một cân món ấy đã bằng tiền mua tám cân thịt dê rồi (*). Nếu Miêu nương tử lại ra giá cao tìm mua châu báu thì bất kể là phỉ thúy, đồi mồi hay ngà voi cũng sẽ đều giá cả tăng vọt, trên trái ý vua, dưới hại dân sinh, tuyệt đối không thể được, mong nương tử thu hồi mệnh lệnh đã ban."

(*) Một cân tàu bằng nửa cân ta.

Miêu chiêu dung ngẫm nghĩ đôi chốc rồi cười nói với Du tiệp dư: "Lời con bé này cũng có chỗ có lý. Quan gia luôn muốn chúng ta tiết kiệm, nếu biết chúng ta vung tiền trả giá cao chỉ để mua trang sức chỉ e sẽ không vui."

Du tiệp dư không có dị nghị gì, song lại nhíu mày: "Nhưng hôm thất tịch, Trương nương tử ắt sẽ dùng trân châu phiên thương làm trang sức, chúng ta dẫu có tìm được món nào giá cả phải chăng nhất thì so với ả thế nào cũng khó tránh khỏi có chỗ thua kém."

Thu Hòa đáp: "Trận so tài hôm thất tịch là để chọn người khéo tài chải đầu, chư vị nương tử vị tất phải dùng trang sức đắt giá. Kiểu tóc của quan gia khác với các nương tử, không cần cài hoa thêm miện. Thu Hòa cho rằng đến khi đó chải đầu thật kỹ lưỡng cho nương tử là được, còn mũ miện xét đến cùng cũng chỉ là vật trang sức, chọn ít hoa lụa, thậm chí là hoa tươi đương thời là đã được rồi, quý báu lắm chi cho thành giọng khách át giọng chủ."

Hai vị nương tử nghe mà gật gù liên tục. Du tiệp dư tự mình đưa tay đỡ Thu Hòa dậy, lại cười: "Cô bé ngoan, may mà có ngươi nhắc nhở. Ngươi nói những lời này cũng chẳng đề phòng ta, có thể thấy trong lòng rất thẳng thắn vô tư."

Thu Hòa bái tạ rồi lại lúng túng không biết phải ứng đối ra sao. Miêu chiêu dung bên cạnh thì cười nói: "Chúng ta đều là người một nhà, người ai tiến cử làm Sơ đầu phu nhân cũng đều như nhau cả, phòng em làm gì chứ?"

Ngày kế, Miêu chiêu dung bảo Thu Hòa vấn cho một kiểu tóc không thêm mũ miện không độn tóc giả, Thu Hòa cầm gương lăng hoa (*) đứng sau lưng bà để bà có thể nhìn được cả đằng trước đằng sau. Chiêu dung vẫn chưa yên tâm, gọi ta lại, bảo: "Ngươi là bé trai, qua xem giúp ta xem kiểu tóc này có ổn không?"

(*) Loại gương đồng nhỏ cầm tay thời xưa, thường có hình lục giác, mặt sau khắc hình hoa củ ấu (lăng hoa).

Tiếng "bé trai" bà lơ đãng gọi khiến lòng ta như được sưởi ấm, mũi lại hơi cay cay.

Ta dụng tâm tỉ mỉ xem xét búi tóc của bà, cúi người nói: "Kiểu tóc này khá sáng tạo, chưa từng thấy trong cung có ai chải giống vậy, quan gia trông thấy ắt sẽ khen đẹp ạ."

Chiêu dung thoáng do dự, hỏi lại: "Không đội miện liệu quan gia có vừa mắt chăng?"

Ta đáp: "Thần cho rằng Đổng nội nhân nói có lý, quan gia muốn chọn người khéo tài chải đầu, không phải người khéo tài làm miện hoa, bởi vậy nên không cần phải tốn quá nhiều công sức vào mũ miện, để Đổng nội nhân chải một kiểu tóc thỏa đáng là được."

Miêu chiêu soi gương thêm lượt nữa, chợt cười: "Vậy được, ta nghe các ngươi lần này. Cơ mà không thêm miện thì trang điểm mặt nhất định phải thật tinh xảo mới được."

Ta không đệm lời, chỉ nói: "Quan gia ưa chải đầu bằng thuật đạo dẫn là bởi thủ pháp này có thể xoa bóp da đầu, đả thông kinh lạc, cường thân kiện thể. Trận so tài đêm thất tịch mà chỉ xem tóc miện ra sao thôi thì không thể nhìn ra thuật đạo dẫn của các nội nhân ai cao tay hơn ai, thế nên mấy ngày nay phiền nương tử khi chải đầu đừng ngại đả thông kinh lạc thường xuyên hơn, nghỉ ngơi điều dưỡng cẩn thận hơn, hôm thất tịch chỉ trang điểm nhã nhặn thôi, quan gia thấy nương tử khí sắc tốt tự nhiên sẽ biết là nhờ công hiệu thuật đạo dẫn của Đổng nội nhân."

Đến ngày thất tịch, kim thượng dẫn cung quyến ngự giá Quỳnh Lâm Uyển bên Kim Minh Trì.

Quỳnh Lâm Uyển nằm trên con đường cái thông tới Thuận Thiên Môn, mặt bắc đối diện với Kim Minh Trì. Hai bên con đường dẫn từ cổng lớn vào trồng toàn những loài tùng bách hiếm lạ, bên trong ẩn chứa vườn cây đủ loại như vườn lựu, vườn anh đào, mỗi vườn một tòa đình tạ. Thái Bình Hưng Quốc năm thứ nhất, hoàng đế sai ba vạn năm ngàn binh sĩ đào Kim Minh Trì, dẫn nước từ sông Kim Thủy đổ vào. Trong hồ có ba cây cầu, lan can sơn đỏ, trụ cầu khắc hình nhạn xếp hàng đỡ bên dưới, ở giữa gồ lên, dáng tựa cầu vồng, một đầu cầu nối với khối kiến trúc năm tòa điện tương liên nằm giữa hồ. Vào mùa hoa hằng năm, nơi đây liễu rủ cầu hồng, hoa vây thuyền phượng, ngát hương êm dịu, hoa thơm phương nam đất Mân, Quảng và Lưỡng Chiết như tố hinh, nhài, loa kèn, thụy hương, hàm tiếu, xạ hương đua nở, lại thêm cả mẫu đơn Mai Đình, cảnh đẹp thật khó lòng đếm xuể.

Tiết hoa triêu (*) năm nay, quan gia sầu lo chuyện triều chính, bát công chúa lại đổ bệnh đau ốm, nên chẳng có tâm tư đâu mà ngự giá vườn hồ. Mãi đến thất tịch, nghe nói mẫu đơn thu tiết mang từ chùa Thái Bình Hưng Quốc về Quỳnh Lâm Uyển trồng đã nở hoa, mới lâm thời quyết định di giá tới dạo chơi thưởng ngắm, đồng thời lựa chọn ty sức mới tại đây.

(*) Tiết hoa triêu trong âm lịch là ngày trăm hoa đua nở, vào khoảng 12-15 tháng 2 âm lịch.

Kim thượng dắt hoàng hậu và công chúa vào chính điện giữa Kim Minh Trì trước. Trong điện đặt long sàng sơn son thếp vàng, bình phong rồng vờn mây nước giữa sông xanh, hai mé mỗi bên bày hơn mười chậu mẫu đơn các loại dời từ Quỳnh Lâm Uyển vào, muôn hồng nghìn tía, phồn hoa tựa gấm, đua nhau khoe sắc.

Lát sau, xe liễn của chư tần ngự đến nơi, chúng nương tử ai nấy trang phục lộng lẫy, lần lượt vào trong. Trong số những nương tử tham gia so kiểu tóc, Du tiệp dư là người tiến vào đầu tiên, chỉ thấy bà vấn tóc kiểu triều thiên (*), hai búi tóc song song với trán, hơi ngả ra sau, bên trên điểm thêm chiếc miện tròn bằng la lụa, la lụa quấn lấy nhau hợp thành hình cánh hoa, chia làm bốn, năm đóa, viền cánh hoa đỏ thẫm, màu sắc nhạt dần vào tâm, ở giữa gần như là trắng nhạt. Miện rộng chừng nửa thước, cao tầm năm, sáu tấc, không dùng đến bất kỳ món châu ngọc nào song vẫn mang cảm giác diễm lệ long trọng.


Kim thượng trông thấy gật đầu, mỉm cười: "Cái miện này của nương tử được đấy."

Du tiệp dư ngoảnh lại nhìn nội nhân phía sau, vui vẻ nói: "Đây là do Thải Nhi làm cho thần thiếp đấy ạ."

Nội nhân Cố Thải Nhi bước lên bái kiến quan gia. Nhan sắc thị tầm tầm, không có điểm nào đặc biệt tươi đẹp, nhưng đối đáp trầm tĩnh, ngôn hành tương đối quy củ.

Kim thượng khen thị thêm hai câu rồi ban tọa cho Du tiệp dư, lặng lẽ đợi hai vị nương tử còn lại tới.

Ngay sau đó là Miêu chiêu dung vào điện. Bà tiếp thu kiến nghị của Thu Hòa và ta, chải một búi tóc nom như nụ hoa ngọc lan, tóc xanh xoay tròn, sáng sủa bóng loáng, không đội miện, gần như chỉ điểm tô bằng một quả cầu hoa nho nhỏ làm từ hoa lá cây hòe bên sườn mái đầu, trang điểm mặt cũng mộc mạc, gương mặt trắng trẻo láng mịn, không thêm hoa điền (*), đôi gò má chỉ thoa chút phấn hồng, phơn phớt ửng đỏ như có như không, nhìn rất tao nhã thanh thoát.

(*) Hình vẽ hoa trang điểm trên trán hay ấn đường của phụ nữ thời xưa gọi là hoa điền, khác với hoa bột (xuất hiện ở chương trước) là làm bằng bột (như tò he) hoặc cao dẻo dán nổi lên.

Chúng tần ngự thấy bà không đội miện đều rất đỗi kinh ngạc, cùng quay sang nhìn quan gia, chờ ngài bày tỏ thái độ.

Kim thượng ngắm nghía hồi lâu, cuối cùng cười mỉm khen: "Kiểu tóc này chải đẹp lắm, khí sắc chiêu dung hôm nay cũng tươi tắn, nhìn như quay về thời con gái mười lăm, mười sáu vậy."

Miêu chiêu dung mừng rỡ bội phần, vội gọi Thu Hòa qua, song song bái tạ.

Bởi thế mà mọi người càng thêm hiếu kỳ về lối trang điểm của Trương mỹ nhân, đều cùng nghển cổ phóng mắt ra ngoài điện, đợi ả tiến đến.

Trương mỹ nhân rề rà hồi lâu mới chịu đi vào. Đợi đến khi bóng dáng xuất hiện trong điện rồi, tất cả mọi người đều lấy làm kinh hãi.

Miện châu ả đội trên đầu rộng tới năm tấc, cao hơn một thước, lấy sa màu làm đế, la dệt từ tơ sống làm lá, trong phiến lá lớn gấp hai, ba mươi lớp lá nhỏ, bên trên lại dựng thêm phiến nữa như lầu gác, mỗi phiến lá đều dùng chỉ vàng đính trân châu phiên thương trắng như tuyết lên, số lượng tăng dần theo độ lớn của phiến lá, trên đỉnh miện là một viên to như mắt rồng.

Nhưng điều làm mọi người kinh ngạc nhất lại không phải là chiếc miện xa xỉ này mà là tấm áo gấm khoác ngoài màu son thêu hoa thêu phượng.

Trong khi trung cung hôm nay thì đội miện trăng mây sợi vàng, trước sau thêm trâm rồng bạch ngọc cùng áo ngoài sắc đào.

Cứ mỗi dịp lễ lạt cỗ tiệc, trước khi ra cửa, tần ngự đều sẽ cử người đi trước hỏi thăm xem hôm đó hoàng hậu dùng phục sức màu gì để tránh cùng màu. Mà nay Trương mỹ nhân lại công nhiên chọn mặc áo ngoài son thắm, thật là hành vi vô lễ vượt quyền.

Dưới cái nhìn chăm chú của mọi người, Trương mỹ nhân ung dung thản nhiên đi vào điện, lạnh nhạt liếc hoàng hậu rồi uyển chuyển hạ bái, không chút nào cảm thấy hổ thẹn.

Hoàng hậu cũng chẳng tức giận, ngồi ngay ngắn nhận một xá của ả rồi khẽ cười: "Cái miện của Trương nương tử tinh xảo thật đấy, tên là gì vậy?"

Trương mỹ nhân kiêu ngạo đáp: "Tên là miện Quần Phương." Dứt lời, làn thu thủy lúng liếng đánh sóng sang kim thượng như lẳng lặng đợi ngài khen.

Kim thượng chăm chú nhìn ả, thần sắc tỉnh bơ. Lát sau từ từ giơ tay lên, lấy tay áo che mặt, nói: "Khắp đầu lia chia những trắng là trắng, chẳng biết kiêng kị gì cả."

Hiển nhiên tất cả mọi người đều không ngờ đến kết quả này, Trương mỹ nhân nhất thời ngây phỗng. Muôn vàn cặp mắt trừng trừng đổ về phía ả mà kim thượng thì lại chẳng liếc lấy một cái, ả không khỏi cúi đầu, hai má đỏ phừng như thể màu áo trên thân nhuốm lên tận mặt.

"Quan gia thứ tội..." Ả khẽ giọng, "Cho phép thần thiếp cáo lui sang thiên điện đổi miện."

"Đi đi." Kim thượng gật đầu, bổ sung một câu, "Nhân tiên thay cả xiêm y đi... Màu này hôm nay không hợp với nàng."

Trương mỹ nhân ưng thuận, lùi ra sau mấy bước rồi xoay người rảo chân rời khỏi đại điện. Nội nhân Hứa Tĩnh Nô chải đầu cho ả đứng sau lưng theo ả hạ bái, vẻ mặt vốn rất tự tin, hẳn định đợi mỹ nhân giới thiệu là đi ra tạ thiên ân, vậy mà lại xảy ra biến cố thế này. Dung nhan Tĩnh Nô đẹp đẽ, kim thượng lại chỉ liếc ả một cái, không hề có ý đối thoại với ả, làm ả luống cuống khôn kể, không biết nên lui đi hay ở lại. Lúng túng quỳ đó một lúc, cuối cùng không nhịn được đứng lên, ngay ngáy chạy ra ngoài đuổi theo Trương mỹ nhân.

Miêu chiêu dung và Du tiệp dư đưa mắt nhìn nhau từ xa, khóe mắt đuôi mày đều hớn hở vui mừng. Trong tần ngự có người lấy quạt che mặt, có người khẽ nghiêng mặt hướng ra ngoài điện, có người hạ giọng ho khan, những động tác mờ ám này đều là để che giấu ý cười đè nén không đặng.

Sau đó, kim thượng tán gẫu cùng hoàng hậu và chúng phu nhân, trò chuyện đôi câu tản mạn về mẫu đơn. Đợi trong chốc lát, rốt cuộc cũng thấy Trương mỹ nhân một lần nữa trở vào, lần này đã đổi áo ngoài, miện châu cũng gỡ bỏ, chỉ vấn một búi tóc bàn phúc (*) đơn giản. Có lẽ là hàm đôi phần giận dỗi nên trên tóc không thêm bất kỳ phụ kiện gì, mặt mày bí xị, hạ bái xong không nói một câu nào.

(*) Không tìm được tư liệu ảnh nào minh họa cho kiểu búi tóc này, hiểu nôm na là búi tóc tròn.

Kim thượng cười: "Trương nương tử vấn tóc thế này đẹp đấy, cài thêm đóa hoa lại càng hay." Nói đoạn đi tới một cây mẫu đơn tím ngàn cánh "diệp đế tử", tự tay hái một đóa xuống, cài lên tóc Trương nương tử.

Chư nương tử cùng khen đẹp, bấy giờ sắc mặt Trương nương tử mới nguôi ngoai phần nào. Du tiệp dư thấy bầu không khí chuyển biến tốt đẹp, cũng có can đảm mở miệng bông đùa: "Ai cũng bảo quan gia bất công, quả nhiên, có đóa hoa đẹp là cho Trương nương tử hết cả!"

Kim thượng cười nói: "Nàng đội miện hoa to như vậy rồi, cho nàng hoa biết cài đi đâu?"

Du tiệp dư nghe thế, ngay trước mặt mọi người gỡ miện khỏi tóc ném cho Cố Thải Nhi rồi xòe tay: "Thiếp cũng không có miện rồi này."

Kim thượng lắc đầu cười, đi hái một đóa "đảo vựng đàn tâm" cài lên đầu cho bà: "Hoa này viền rìa đậm màu, vào gần đài hoa lại nhạt trắng, đàn hương thấm tận tâm, có phải rất giống miện của nàng không?"

Tiếp đó lại chọn một đóa "tiềm khê phi" thay cho quả cầu hoa hòe trên đầu Miêu chiêu dung, nói: "Hoa này ánh lên mặt tôn sắc hơn."

Chúng tần ngự còn lại thấy thế đều tụ qua xin quan gia thưởng hoa, quan gia nhận lời từng người, cài cho mỗi người một đóa hoa. Cuối cùng, đi tới bên cây mẫu đơn ngụy tử ngàn cánh nở rộ nhất, tỉ mỉ chọn một đóa thật đẹp rồi quay trở lại ngự tọa, cài lên miện hoàng hậu đó giờ vẫn mỉm cười ngồi tại chỗ.

Công chúa thấy thích, cũng kéo tay áo phụ thân đòi cài hoa, kim thượng bèn nắm tay nàng dắt xuống, hái một đóa "diêu hoàng". Công chúa hãy còn là bé gái búi tóc quả đào, mái đầu không cài được đóa hoa to như thế, bèn cầm trong tay thưởng thức.

Cảnh tượng trong điện vui vẻ hòa thuận, hoàng hậu lựa đúng thời khắc này hỏi quan gia chuyện ty sức: "Quan gia đã chọn được ty sức mới chưa ạ?"

Lời vừa ra khỏi miệng, tiếng cười nói mới rồi tức khắc tiêu tan, mọi người đều nín thở lẳng lặng đợi đáp án của kim thượng.

"Chọn được rồi." Kim thượng nói, tầm nhìn đảo quanh ba khuôn mặt của Đổng Thu Hòa, Cố Thải Nhi và Hứa Tĩnh Nô khiếp nhược trốn sau lưng Trương mỹ nhân.

"Kể từ ngày hôm nay, phong nội nhân..." Ánh mắt kim thượng thoáng dừng lại trên mặt Thu Hòa song cuối cùng vẫn lướt qua, chuyển sang một người khác, "Cố thị của Thượng phục cục làm ty sức, quản lý việc khăn lược cho trẫm."

Đáp án được công bố không chỉ khiến quá nửa số người trong điện kinh ngạc mà đến Cố Thải Nhi cũng ngây người không phản ứng lại được.

Nghe lời kim thượng bình về tóc miện của các vị nương tử, hẳn nên là Thu Hòa trúng tuyển mới phải, huống hồ dung mạo Thu Hòa còn vượt xa Thải Nhi.

Tuy nhiên, vẻ mặt Thu Hòa nãy giờ vẫn luôn có vẻ căng thẳng lúc này lại từ từ dịu xuống, thở phào một hơi như trút được gánh nặng.

Lác đác dần dần có người khen hay khen phải, chúc mừng Cố Thải Nhi, bấy giờ Thải Nhi mới tạ ơn đáp lễ. Hoàng hậu hỏi vì sao kim thượng quyết định Cố thị là người chiến thắng, ngài chỉ đáp đơn giản rằng: "Thải Nhi làm miện dùng nguyên liệu giản dị song không mất quý khí thiên gia, kiểu tóc cũng chải rất tốt."


2. Thất tịch

Sau đó, đế hậu cùng chúng cung quyến dời bước sang Quỳnh Lâm Uyển ngắm hoa thu đương mùa, hoàng hôn buông xuống thì lên Bảo Tân Lâu trong Kim Minh Trì mở tiệc.

Những bữa tiệc tư trong cung thế này, theo lệ thường tần ngự sẽ tự bỏ tiền ra chuẩn bị vài món ăn dâng quan gia thưởng thức. Món chính được dâng lên hôm nay là hai mươi tám con cua mới vận chuyển từ Giang Nam tới kinh thành, gạch đầy béo ngậy, hấp lên óng ánh màu son vàng, đặt trong đĩa sứ trắng nom vô cùng bắt mắt.

Nào ngờ kim thượng trông thấy lại nhíu mày, gọi Nhậm Thủ Trung lại, hỏi: "Trong kinh mùa này mà có món ấy à? Giá cả bên ngoài bao nhiêu?"

Nhậm Thủ Trung khom người bẩm: "Một ngàn đồng một con ạ... Đây là chút tâm ý của các nương tử, trước lễ đã đặc biệt dặn Ngự thiện cục tìm đến dâng cho quan gia."

Kim thượng sầm mặt không vui, nhìn quanh chúng tần ngự, hỏi: "Chỉ một đũa này thôi mà tiêu phí mất hai mươi tám ngàn?"

Chúng tần ngự im phăng phắc không dám ứng đối. Kim thượng gác đũa, không ăn. Hoàng hậu thấy thế bèn lệnh nội thị dọn xuống, bấy giờ quan gia mới bằng lòng dùng bữa.

Đế hậu ngồi trên ngự tọa chính giữa điện, tần ngự phân chia lần lượt ngồi hai bên, ghế của công chúa đặt bên cạnh kim thượng, tuy cách ngài gần nhất song cũng không liền kề, ở giữa cách một khoảng chừng năm, sáu thước. Nhân lúc các nương tử đang chăm chú xem múa hát hầu tiệc, công chúa khom lưng cúi đầu, thò người về phía phụ thân, nho nhỏ gọi khẽ: "Cha..."

Kim thượng thấy cái vẻ thần bí này của nàng, không khỏi rộ cười, cũng nghiêng về nàng, thấp giọng: "Sao thế?"

Công chúa nói tiếp bằng tiếng thì thầm của mình: "Con biết vì sao cha không ăn cua."

"Ồ?" Kim thượng cố ý nhướng mày, hỏi: "Vì sao nào?"

"Chốc nữa con sẽ nói cho cha biết." Công chúa nhoẻn cười, nhanh chóng ngồi thẳng lại rồi quay đầu bảo ta đang đứng hầu hạ đằng sau: "Hoài Cát, bóc cho ta củ ấu."

Sau bữa tiệc, có nội thị vào bẩm báo đã dựng xong lầu gấm khất xảo (*) trước thủy điện (**), kim thượng bèn dắt công chúa, cũng dẫn theo cả con gái nuôi của hoàng hậu và Trương nương tử đi trước.

(*) Khất xảo là tục làm lễ cúng cầu khấn Chức Nữ giúp cho khéo tay canh gửi, thêu thùa vào buổi tối ngày thất tịch.

(**) Trong kiến trúc Trung Hoa cổ, cung điện xây kề sát mép nước được gọi là thủy điện.

Lúc xuống lầu, kim thượng nhắc lại tới lời công chúa nói trên tiệc, công chúa trả lời: "Cha không ăn cua không phải là vì cua không ngon mà là vì cảm thấy quá đắt. Nếu ăn, truyền ra ngoài cung, cua năm nay có thể còn đắt hơn. Giống như khi cha chê miện của Trương nương tử vậy, thực ra không phải là miện không đẹp mà là hạt châu trên đó quá đắt..."

"Được rồi được rồi..." Kim thượng mỉm cười ngắt lời nàng, "Tự hiểu trong lòng là được, không cần phải nói ra."

Công chúa cười gật đầu, lại nói: "Con gái có chuyện này muốn hỏi cha, mong cha trả lời thật lòng."

Kim thượng cho phép nàng nói, công chúa bèn hỏi: "Thải Nhi, Tĩnh Nô và Thu Hòa hôm nay, ai là người chải tóc cho nương tử đẹp nhất ạ?"

Kim thượng đang định mở miệng thì công chúa lại cản ngài, nghiêm túc nhấn mạnh: "Cha nhất định phải nói thật đấy."

Kim thượng cười nụ, quay đầu nhìn ra sau, thấy chỉ có Vương Chiêu Minh và ta theo gót, những người còn lại hãy còn cách một khoảng xa, bèn cúi người thì thầm lời thật với công chúa: "Thu Hòa."

Công chúa dẩu miệng, ra chiều bất mãn: "Vậy tại sao cha không cho Thu Hòa làm ty sức? Nương nương, tỷ tỷ và con đều thích Thu Hòa cả, lẽ nào cha không thích chị ấy?"

"Ừm... Thích." Kim thượng cười cười, vẫn nắm tay công chúa chậm rãi bước đi, ngữ điệu điềm đạm thong dong, "Nhưng, Huy Nhu, chúng ta càng thích ai thì lại càng không thể để người khác nhìn ra mình thích người đó. Thể hiện lòng yêu thích với nó chẳng khác nào đẩy nó lên đầu sóng ngọn gió, khiến nó trở thành mục tiêu công kích, minh thương ám tiễn sẽ nối đuôi nhau đâm tới, cuối cùng thành ra làm hại nó."

Công chúa cau mày suy tư, lại hỏi: "Cha e nội nhân bên Thượng phục cục sẽ ghen ghét Thu Hòa?"

"Ha ha," Kim thượng khẽ xoa đầu nàng, "Có lẽ." thoáng dừng lại rồi nói tiếp: "Con phải nhớ lấy câu này đấy. Thực sự thích ai thì đừng đối xử với người đó quá tốt, đừng khiến người khác phát hiện ra, thậm chí, cũng đừng để bản thân người ấy cảm nhận được mình thích họ nhường nào..."

"Ồ..." Công chúa cái hiểu cái không, ngẫm nghĩ một hồi, cuối cùng vẫn hỏi ra: "Vì sao lại không được cho người ấy biết ạ?"

Kim thượng cười khẽ lắc đầu, giữ kín như bưng: "Chốc nữa cha sẽ nói cho con biết."

Đêm thất tịch, đa số quý tộc trong kinh thường sẽ dùng gỗ chạm khắc và gấm màu kết thành một tòa lầu màu sắc dựng trong sân, gọi là "lầu gấm khất xảo". Bên trên bày hoa quả, rượu thịt, bút nghiên, kim chỉ và tượng đất "Ma Hát Lạc" trong hình hài trẻ con mặc quần áo sặc sỡ (*), bé trai làm thơ ngâm vịnh, bé gái luồn kim se chỉ, dâng hương bái lạy, gọi là "khất xảo".

(*) "Ma Hát Lạc" là phiên âm tiếng Hán tên con trai của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni, hình tượng vốn là mình người đầu rắn, sau khi truyền vào Trung Hoa thì thành đứa trẻ khả ái, trở thành loại tượng đất cúng Ngưu Lang Chức Nữ vào ngày thất tịch.

Kim thượng sai kết lầu hoa trước thủy điện. Dưới mái hiên treo cao đèn lồng, trên bầu trời ngân hà rực sáng, thu thủy trong hồ gợn sóng lăn tăn, lại có vịt nhạn, uyên ương, rùa cá, hoa sen đúc bằng sáp ong do cung nhân chế tạo, đều được tô màu viền vàng, sau khi châm lửa bấc đèn trên đỉnh thì thả xuống hồ nước cho trôi nổi, gọi là "thủy thượng phiêu", tương đối với trăng sao khắp trời mà tôn sắc lẫn nhau.

Công chúa chọn lấy vài con thủy thượng phiêu, lại nhặt Ma Hát Lạc lên nghịch, chê xiêm y con gái trong đó không đẹp, liền quay sang nói với chúng bạn nữ: "Chúng ta đổi quần áo khác cho Ma Hát Lạc đi, xem xem ai làm đẹp nhất."

Đám bạn nữ bằng lòng, mỗi người lấy một Ma Hát Lạc rồi nhao nhao lấy khăn tay, hoa lụa và mọi miếng vải có thể dùng ra làm phục sức cho tượng đất. Công chúa thì sai người hái một đóa sen trong hồ, tự mình ngắt mấy cánh hoa xuống, đùm thành một vòng quanh eo bức tượng bé gái, dùng tơ buộc lại, giơ lên cho mọi người xem. Hoàng hậu và mấy vị tần ngự bên cạnh đều khen nàng sáng tạo.

Đợi đến lúc khất xảo, công chúa cầm cây kim bảy lỗ, chẳng mất bao lâu đã luồn chỉ xong xuôi. Chúng phu nhân lại khen nàng, song nàng khoát tay ngăn lại, nói thẳng: "Lỗ to như mắt đồng tiền vậy á, có muốn không luồn được cũng khó."

Người nghe đều phì cười. Kim dùng để khất xảo đều là hàng đặc chế, không phải kim may khâu bình thường. Thân kim dẹt, có bảy cái lỗ, nhưng lỗ kim rất to, lúc khất xảo cần phải luồn chỉ theo thứ tự xuyên qua bảy cái lỗ, tuy nhiên việc này đối với một bé gái tám, chín tuổi chẳng có gì là khó cả.

Đợi các cô bé xuyên kim xong, công chúa dẫn người dâng hương bái lạy trước lầu gấm. Nghi thức kết thúc, nàng vẫn còn chưa thỏa mãn, hỏi hoàng hậu: "Nương nương, thế này là hết việc để làm rồi ạ?"

Hoàng hậu cười: "Hồi xưa khi ta ở nhà mẹ đẻ thì còn chơi một trò chơi. Cầu nguyện trước rồi dựng thẳng một đồng tiền lên, dùng ngón tay búng, làm nó xoay vòng. Đợi đến lúc đổ xuống, nếu mặt ngửa hướng lên trời thì tâm nguyện này sẽ được đạt thành."

Công chúa nghe xong lập tức đòi thử, hoàng hậu bèn sai người chia cho công chúa và các cô bé vài đồng tiền. Chẳng ngờ công chúa vừa thử lần đầu đã trúng ngay mặt sấp. Nàng luôn miệng: "Lần này không tính!" rồi thử lại, nhưng liên tiếp ba lần vẫn không có lấy một lần mặt ngửa.

Người đứng xem đều cảm thấy không lành, tuy trên mặt vẫn treo nét cười song đều có vài phần gượng gạo. Công chúa lại không có vẻ gì là không vui, chợt đứng bật dậy, chạy tới trước một chiếc đèn ngàn nhánh, lấy một cây nến xuống, nhỏ vài giọt sáp nến lên mặt sấp của một đồng xu, sau đó áp vào với mặt sấp của một xu khác, dán hai xu lại như vậy, trái phải đều là mặt ngửa rồi.

Nàng đắc ý thử lại bằng đồng tiền này. Đầu ngón tay búng một cái, đồng tiền dày cộp vụng về xoay tròn, sau cùng đứng im rồi vẫn duy trì trạng thái dựng thẳng, không đổ xuống.

Miêu chiêu dung thấy vậy cười: "Thế này thì phải tính là gì?"

Hoàng hậu trông đến cũng cười: "Trùng hợp ghê, năm ta mười tám cũng từng ra kết quả như vậy... Cơ mà đồng tiền đó chỉ có một xu thôi."

Mọi người hiếu kỳ hỏi: "Thế tâm nguyện của hoàng hậu khi đó là gì vậy? Có đạt thành không?"

Hoàng hậu lại không nói thêm gì nữa, im lặng cúi đầu, nhưng khóe miệng thì hơi nhếch lên.

Miêu chiêu dung tỉnh ngộ: "Cô nương mười tám thì có thể có tâm nguyện gì khác chứ? Đương nhiên là mong ước được gả cho lang quân như ý rồi."

Chúng nương tử bấy giờ mới hiểu ra, đều tủm tỉm cười nhìn hoàng hậu, chỉ duy công chúa là vẫn ngây ngô hỏi: "Sau đó thì sao ạ?"

"Sau đó..." Kim thượng bỗng cất lời, ánh mắt dịu dàng đậu lên hoàng hậu, he hé rộ cười, "Không bao lâu sau thì ta hạ chỉ, triệu nương nương con vào cung."

"Thì ra là thế." Công chúa vỗ tay hớn hở: "Vậy đây là dấu hiệu tốt rồi."

Các nương tử cũng hoan hỉ khen phải. Hoàng hậu cười e ấp, đầu càng cúi xuống thấp hơn, không dám nhìn sang quan gia nữa.

Năm nay bà hăm chín, song dáng vẻ ráng hồng nhuộm má này lại y như thiếu nữ khuê phòng, thùy mị nhu mì khác hẳn hình tượng trung cung bình tĩnh hờ hững, nghiêm cẩn hàm uy ta chứng kiến năm xưa.

"Huy Nhu," Đúng lúc này, kim thượng gọi công chúa, dẫn sự chú ý của đám đông quay trở lại nàng, "Đã là dấu hiệu tốt thì con nói nghe xem con cầu nguyện gì đi."

"Á!" Công chúa trợn tròn mắt kêu lên, tiếp đó trề môi, rất chi là ảo não: "Ban nãy con quên khuấy mất chuyện cầu nguyện rồi."

Kim thượng bảo công chúa cầu nguyện thử thêm lần nữa, Miêu chiêu dung lại nói: "Nó hồ đồ lỗ mãng như thế, thử tiếp chẳng biết sẽ lại đẻ ra chiêu trò gian trá gì, không bằng đổi sang chơi trò khác đi thôi."

Chiêu dung đại khái là lo công chúa lại thử ra điềm không lành. Kim thượng nghe vậy gật đầu đồng ý, công chúa thì rầu rĩ không thôi: "Nhưng trò nào chơi được cũng đều chơi cả rồi, còn làm cái gì khác được đâu?"

Ta nhìn cặp đồng xu nàng vẫn đang cầm trong tay, chợt nhớ tới câu "Trên sảnh nghịch tiền dưới sảnh trốn" của Âu Dương Tu, trong lòng phút chốc hiện lên một ý niệm mơ hồ.

"Công chúa," Ta cúi người kiến nghị với nàng, "Hay là cho vời Đổng nội nhân lại đây cùng chơi xóc tiền vậy?"

Hai mắt công chúa sáng ngời, cười nói: "Được đấy, dạo này chị ấy cứ mải miết chuẩn bị chuyện chải đầu suốt, rất lâu rồi chưa chơi xóc tiền với ta... Mau gọi chị ấy qua đây đi."

Ta ứng lời, tự mình đi tìm Thu Hòa.

Khi ấy Thu Hòa đang đứng một mình cạnh lan can bên hông thủy điện, đăm đăm nhìn nụ sen khép kín trong nước, ánh mắt lúng liếng ngậm một nét cười be bé.

Chẳng biết dòng chảy ngoài lan can chất chứa niềm vui dào dạt nhường nào, chở tâm hồn cô thoát ly cung khuyết du đãng nơi xa, mà ta gọi mãi đến tiếng thứ ba, cô mới giật mình quay lại. Như bị ta dòm ra bí mật gì, cô ngượng ngùng rũ mi, nghe ta chuyển cáo xong lập tức vội vàng chạy tới bên công chúa.

Lúc đó đêm khuya sương dày, kim thượng lệnh các nương tử quay trở lại Quỳnh Lâm Uyển nghỉ ngơi trước rồi dẫn hoàng hậu, Miêu chiêu dung, công chúa và vài vị cô nương vào điện, sai người chuẩn bị bàn ngọc bên dưới ngự tọa cho các cô bé chơi xóc tiền.

Lần này công chúa muốn chia tổ chơi, nàng cùng tổ với Thu Hòa, tổ còn lại là Phạm cô nương và Chu cô nương, cộng thành tích của hai người mỗi tổ lại làm kết quả cuối cùng. Hai vị cô nương không chịu, nói Thu Hòa chơi giỏi nhất, ai cùng nhóm với cô thể nào chẳng thắng. Công chúa cũng thản nhiên thừa nhận: "Ta chính là muốn thắng đó. Thường ngày lúc nào cũng là hai người thắng, hôm nay ăn tết, hai người dầu gì cũng phải nhường ta một bữa, cho ta hòa lại một ván sảng khoái đi chứ!"

Các cô nương nghe nàng nói vậy cũng bèn cười đồng ý, bốn cô gái mỗi người một phương, bắt đầu xóc tiền.

Tiếng xóc tiền vui tai như gõ chuông, hòa vào tiếng nói cười của các cô nương. Xóc tiền đẹp nhất tất nhiên vẫn là Thu Hòa. Động tác mỗi lượt tung bắt đều tựa nước chảy mây trôi, đến đối thủ cũng phải trầm trồ khen ngợi. Ta biết cô chắc chắn là vai chính của cuộc chơi này, chắc chắn giành được sự quan tâm đặc biệt của người xem.

Ta lặng lẽ ngó kim thượng, thấy ngài quả thực chú ý tới Thu Hòa hơn cả, kể cả khi đồng tiền không nằm trong tay cô, cô chỉ ngay ngắn ngồi yên, tầm mắt ngài cũng chưa từng rời đi.

Người để ý đến chi tiết này không chỉ có mình ta.

Nhạc sư của Giáo phường (*) ẩn mình sau mành che trong điện, tấu nhạc trợ hứng, đàn xong một khúc, có nội thị đi qua hỏi hoàng hậu tiếp theo nên chơi khúc nào, chỉ nghe hoàng hậu chỉ thị: "'Vọng Giang Nam'."

(*) Cơ quan quản lý âm nhạc ca múa thời xưa.

Ta không khỏi đưa mắt về phía bà, chẳng ngờ bà cũng đang nhìn ta, ánh mắt chạm nhau, bà ung dung mỉm cười, ta cúi đầu khom lưng, chỉ cảm thấy dụng tâm của mình đã bị bà soi thấu.

Kim thượng trước sau vẫn chỉ xem Thu Hòa, tựa hồ hoàn toàn không để ý tới tên khúc nhạc hoàng hậu vừa nói, mãi đến khi tiếng đàn vang lên, ngài mới từ từ phát giác, hơi ngồi thẳng dậy, nét cười thoải mái phai nhạt, hẳn là đã nhớ tới vụ Âu Dương Tu.

Điệu nhạc trong trẻo êm tai, vấn vít liên miên, tấu liên tục sang lượt thứ hai. Ta thầm ngâm nga bài từ của Âu Dương Tu theo tiếng nhạc, đương khi ngâm tới câu cuối "Huống gì đến hôm nay" thì chợt nghe kim thượng mở miệng: "Chiêu Minh."

Vương Chiêu Minh lập tức ứng tiếng, đứng nghiêm nghe lệnh.

"Ngươi đi tra vụ án của Âu Dương Tu đi." Kim thượng nói, buông một tiếng thở dài rồi lại bổ sung: "Điều tra cho cẩn thận vào, đừng xử oan cho ai."

Vương Chiêu Minh đánh cái rùng mình, hẳn đã hiểu được ý của kim thượng, vội quỳ xuống tiếp chỉ, trịnh trọng nói: "Thần chắc chắn sẽ điều tra kĩ càng, không dám làm nhục mệnh vua."

Trận xóc tiền đêm nay tất nhiên là công chúa và Thu Hòa toàn thắng. Phạm cô nương và Chu cô nương muốn ra tiền thưởng đưa nàng, nàng lại không nhận, nói: "Cha sẽ cho ta tiền thưởng, hai người không cần phải đưa."

Kim thượng nghe vậy cười: "Chắc gì cha đã cho con. Bữa nay tuy thắng nhưng cũng có phải nhờ công con đâu."

Công chúa thuận thế xin công cho Thu Hòa: "Đúng vậy, tất cả là nhờ có Thu Hòa con mới thắng được. Cha thưởng cho chị ấy hậu hĩnh vào nhé."

Kim thượng gật đầu, hiền từ hỏi Thu Hòa: "Thu Hòa, ngươi muốn gì nào?"

Thu Hòa chỉ cúi đầu xua tay, thưa: "Công chúa bằng lòng hạ mình chơi với nô tì, Thu Hòa đã tốt số lắm rồi, sao dám tranh công xin thưởng."

"Ngươi chơi với nó có khác nào làm thầy dạy nó đâu, có công lý nào lại không được nhận lộc." Kim thượng nói rồi, không nghe Thu Hòa chối từ nữa mà quay sang hoàng hậu, cười hỏi: "Chúng ta nên thưởng gì cho nó đây nhỉ?"

Hoàng hậu cũng cười: "Con bé làm thầy công chúa luôn tận tâm tận sức, thần thiếp nhất thời cũng không nghĩ ra được nên thưởng cái gì, chỉ sợ thứ ban cho nó lại chẳng thích. Không bằng quan gia để nó đề tâm nguyện của mình ra đi, quan gia thấy khả dĩ thì giúp nó thực hiện, vậy có được không?"

Kim thượng không ngớt lời bảo được, hỏi Thu Hòa có tâm nguyện gì, Thu Hòa do dự, sau cùng nhỏ giọng nói: "Tạm thời thiếp không nghĩ ra..."

"Vậy hôm nay ta cho ngươi một câu chấp thuận này," quan gia nói, "Ngày sau ngươi nghĩ ra rồi thì nói cho ta biết, miễn là ta làm được, nhất định sẽ giúp ngươi đạt thành tâm nguyện."

Thu Hòa nâng tay ngang trán, trịnh trọng hạ bái tái ơn. Một lần nữa đứng dậy, trong mắt lấp lánh chớp sáng, vẻ mặt điềm tĩnh thoáng để lộ chút mừng vui khiêm nhường.

Ta đoán cô nhất định là có tâm nguyện, bởi nhận được lời chấp thuận của hoàng đế mà tương lai bắt đầu le lói một tia sáng.

Chứng kiến kết quả này, ta rất vui lòng. Cuộc đời có hi vọng thật vui vẻ biết bao, ngày sau của cô hẳn sẽ được hạnh phúc.

Sang tháng Tám, vụ án Âu Dương Tu cuối cùng cũng có kết quả. Trải qua Tô An Thế và Vương Chiêu Minh thẩm tra đưa ra kết luận rồi cùng tể chấp thương nghị, kim thượng hạ chỉ giáng Âu Dương Tu xuống làm tri chế cáo, biếm đi Trù Châu. Đồng thời cũng hàng Tô An Thế xuống làm điện trung thừa (*), giám sát thuế muối Thái Châu, trục Vương Chiêu Minh ra khỏi kinh đi giám sát thuế rượu huyện Thọ Xuân.

(*) Chức quan thuộc Điện trung tỉnh, chăm nom sinh hoạt của hoàng đế.

Không bao lâu sau, chuyện thẩm án truyền vào trong cung: Vương Chiêu Minh vào nhà ngục phủ Khai Phong, thấy công văn tra xét của Tô An Thế bản nào bản nấy đều buộc tội Âu Dương Tu loạn luân trộm cháu, tức thì ngạc nhiên: "Chiêu Minh hầu hạ bên quan gia đã mấy ngày không thấy quan gia nhắc nhỏm gì đến Âu Dương Tu. Giờ tra án lại toàn lựa ý theo tể tướng thế này, mai sau quan gia mà không vui, tính mạng Chiêu Minh tất khó bảo toàn."

Tô An Thế nói chuyện này là thật, kim thượng hẳn sẽ không trách tội, Vương Chiêu Minh lại hỏi y Âu Dương Tu đã nhận tội chưa, Tô An Thế đáp: "Hắn kháng cự không nhận tội, không bằng trui rèn."

Cái gọi là "trui rèn" tức nghiêm hình tra khảo, ép người nhận tội. Vương Chiêu Minh lắc đầu quầy quậy, nghiêm nghị nói: "Quan gia bảo tôi đến giám sát tra án là muốn tôi xử lý cho phải nhẽ, công bằng hết sức có thể. 'Trui rèn'? Nói gì vậy chứ!"

Tô An Thế nghe mà sợ hãi, không dám bàn tới "trộm cháu" nữa, nhưng lại hặc Âu Dương Tu dùng tiền của Trương thị mua ruộng đất lập hộ. Kim thượng lập tức lấy tội danh này kết án Âu Dương Tu. Đám người Giả Xương Triều tất nhiên là bất mãn, tiếc rằng ý vua đã quyết, không cách nào sửa đổi, bèn lấy cớ Tô An Thế, Vương Chiêu Minh thẩm án không tận tâm, khăng khăng đòi kim thượng nghiêm phạt hai người này. Cuối cùng kim thượng thỏa hiệp, ra quyết định như đã kể phía trên.

Ngày Vương Chiêu Minh xuất cung, ta đứng trong Tây Hoa Môn dõi mắt tiễn y.

Khom lưng hầu hạ đã nhiều năm, lưng y không còn thẳng lên được nữa, cứ thế cong gù chậm rãi bước ra ngoài, đi được mấy bước lại quay đầu lại, thi thoảng đưa tay áo lên lau nước mắt, buồn thảm khôn xiết.

Đợi đến khi y ra khỏi cửa, ngay sau đó cửa cấm nặng nề từ từ khép lại, ta mới nhớ ra đã đến giờ đóng kín cửa cung. Ngẩng đầu lên trời, trông thấy mây vần xua ráng, quạ đêm bay ngang. Nhìn vậy hồi lâu, tâm trạng cũng theo vầng tà dương đỏ sẫm trầm xuống.


3. Quan Âm

Năm Thu Hòa mười lăm tuổi, hoàng hậu thăng cô làm nội nhân khăn lược Trung cung ty, chuyên chăm lo việc trang điểm chải chuốt cho hoàng hậu. Trước đó, Miêu chiêu dung từng kể chuyện Thu Hòa khuyên nhủ bà chớ mua châu báu với hoàng hậu, hoàng hậu cảm thán: "Ta chỉ biết nó thích đọc quốc sử, lại chẳng ngờ nó còn biết bận tâm đến dân sinh. Nữ tử có kiến thức như nó trong lục cung thật hiếm lắm thay." Rồi nảy ra ý định thăng chức.

"Tương lai con bé Thu Hòa khẳng định là có tiền đồ lắm đây." Miêu chiêu dung kết luận như vậy.

Công chúa nghe thế, hỏi mẫu thân: "Ý tỷ tỷ là sau này Thu Hòa có thể thay thế Sở thượng phục, tiếp nhận sự vụ Thượng phục cục ạ?"

Miêu chiêu dung chỉ cười, không đáp phải hay chăng.

Ta mơ hồ đoán được Miêu chiêu dung nói "có tiền đồ" là ý làm sao, nhưng lại cảm giác đó chưa chắc đã là nguyện vọng của Thu Hòa.

Sau lần đưa cô về chỗ ở, cô cũng đối đãi với ta như tay chân, thân thiết hơn rồi, lời nói với ta cũng nhiều thêm, những lần sau cô tới Nghi Phượng Các đều vẫn là ta tiễn cô ra ngoài.

Ngày biết cô chuyển sang trung cung, mọi người trong Nghi Phượng Các chúc mừng cô, cô chỉ cười nụ, cũng không có vẻ gì là đặc biệt vui mừng.

Ta tiễn cô ra cửa, cô lại như có tâm sự, cúi đầu, đạp hoa bước đi dưới hàng tán hòe dọc con đường men theo thành cung, một lúc lâu sau mới lừng chần chừ dừng gót, quay đầu hỏi ta: "Hoài Cát, huynh có tâm nguyện gì không?"

Ta ngẩn người, thoáng lặng thinh rồi đáp: "Nhìn công chúa lớn lên không sầu không lo... Nếu như điều này có thể tính là tâm nguyện."

Có lẽ đáp án này nằm ngoài dự liệu của cô, cô nhìn tôi trân trân hồi lâu, sau cùng nở nụ cười dịu dàng: "Đương nhiên, huynh có thể mãi mãi hầu hạ công chúa mà."

Thấy cô nhắc tới tâm nguyện, ta nhớ tới lời chấp thuận của kim thượng, bèn hỏi Thu Hòa: "Vậy tâm nguyện của cô là gì?"

"Sau thất tịch năm ngoái, rất nhiều người từng hỏi tôi câu đó, đó giờ tôi vẫn chưa trả lời." Thu Hòa mỉm cười nhạt nhòa. Ta tức khắc cảm thấy mình nhiều chuyện, việc gì phải hỏi cô chuyện riêng tư như thế. Chẳng ngờ cô lại chịu nói cho ta: "Nhưng với huynh thì tôi có thể nói ra... Xuất cung, một ngày nào đó, tôi sẽ thỉnh cầu quan gia cho tôi được xuất cung."

Ngỡ ngàng, ta hỏi cô: "Cô không thích ở lại trong cung? Vậy vì sao không nói với quan gia ngay?"

Thu Hòa không đáp, lặng im đứng trong màn gió thổi hòe rơi thành mưa hoa. Lát sau, cô ngẩng đầu, mắt híp hờ, xuyên qua tán cây hoa mọc thành chùm trông lên trời xanh vạn dặm, một tầng cánh hoa trăng trắng vàng vàng tuôn rời từ chiếc miện sa màu của cô bay xuống.

Tôi thấy vẻ mặt cô chăm chú, cũng ngẩng lên xem, chỉ thấy có đàn nhạn xếp thành hàng bay ngang qua thành cung.

"Hoài Cát, Thôi công tử...còn ở trong kinh chăng?" Cô ngập ngừng hỏi, dứt lời lập tức cúi đầu cụp mắt, mặt đỏ bừng.

Ta nhất thời hiểu ra, nguyện vọng của cô có liên quan tới Thôi Bạch.

Ta thành thật nói với cô, kể từ khi được điều vào Hậu tỉnh, ta rất ít có cơ hội liên lạc với người bên Họa viện, thật sự không biết tình hình Thôi Bạch gần đây thế nào, cô lại hỏi ta có thể hỏi thăm không. Ta nhận lời, hỏi cô: "Cô có lời gì muốn chuyển cho huynh ấy không?"

Cô vô thức xoắn một góc tay áo, giọng nhỏ như muỗi kêu: "Bức tranh lần trước huynh ấy vẽ tặng tôi... Thu phố dung tân đồ ấy... Chim nhạn trong đó... Xin hãy hỏi huynh ấy giúp tôi... Chim nhạn đó..."

Trông dáng vẻ cô thế này, lại nhớ lại chi tiết trong Thu phố dung tân đồ, ta mới vỡ lẽ, nhạn được coi là loài chim biểu trưng cho lòng dạ, một chồng một vợ, sánh đôi trọn đời, chung thân không tái hôn. Trong "Nghi lễ – Sĩ hôn lễ" viết: "Sắp lễ cưới gả, chọn nhạn trao tay" lấy ý đôi lứa kiên trinh, cầu cho âm dương hài hòa, thuận vợ thuận chồng, bởi vậy nên tục lệ hôn nhân trong nước đều lấy nhạn làm tín vật. Trong bức vẽ của Thôi Bạch có đôi nhạn, với cái tính phóng khoáng cởi mở đó của gã, tặng tranh này cho Thu Họa chưa chắc đã không có ý ám chỉ hôn ước, hay chí ít thì cũng biểu lộ mình có ý với cô.

Thôi Bạch tướng mạo anh tuấn, phong thái rất có khí chất tài tử, con gái đương xuân cảm mến gã chẳng có gì là lạ. Nay xem thái độ của Thu Hòa, hiển nhiên đã rễ tình đâm sâu, hỏi thăm hành tung Thôi Bạch thế này hẳn là muốn tìm gã hỏi rõ tâm ý, nếu gã thật có lòng cầu thân thì cô có thể tự xin xuất cung, thành đôi với gã.

Nghĩ thông tầng ý này rồi, ta lập tức nói với Thu Hòa: "Để tôi tìm người hỏi xem, có tin tức chắc chắn sẽ nói ngay với cô."

Ta đến Họa viện, tra được địa chỉ trong kinh Thôi Bạch ghi lại trước đây rồi nhờ Trương Thừa Chiếu tìm nội thị Tiền tỉnh có thể ra ngoài cung mua đồ đi hỏi thăm hộ, đáng tiếc là sau đó, tin tức Trương Thừa Chiếu hồi báo cũng chẳng đẹp lành gì: Thôi Bạch đã sớm rời kinh, nói là muốn chu du sông núi nổi danh khắp thiên hạ để vẽ tranh tả thực, không ai biết bao giờ gã mới về.

Ta chuyển cáo kết quả cho Thu Hòa, cô đương nhiên rất là thất vọng, ta bèn vội vàng hứa hẹn với cô, Thôi Bạch trở về sẽ liên lạc ngay với gã, Thu Hòa luôn miệng nói không sao, "Bây giờ ở lại cung cũng tốt, tôi rất thích hí hoáy mấy thứ hoa phấn hương liệu này, xuất cung rồi biết đi đâu tìm được nhiều vậy?"

Đây cũng không phải là mượn cớ, có thể nhìn ra Thu Hòa thật sự yêu thích công việc ở ty sức, cái chúng ta cảm thấy lôi thôi không thú vị, cô lại có thể tự lấy làm vui. Điều này cũng khiến sự chờ đợi của cô trở nên không quá đằng đẵng và buồn tẻ, ta lạc quan nghĩ thế. Trước cứ ở trong cung làm việc cô muốn làm thêm mấy năm, sau hẵng rời khỏi hoàng thành, lấy chồng như ý, giúp chồng dạy con mà sống hết quãng đời còn lại, cô gái thiện lương như Thu Hòa hẳn nên có nhân sinh hoàn mỹ như vậy.

Khánh Lịch năm thứ bảy, Thập Tam Đoàn Luyện và Cao Thao Cao cô nương đến tuổi đôi tám, kim thượng và hoàng hậu trong lúc trò chuyện nhắc đến lời bông đùa về hôn ước giữa hai người khi còn nhỏ, nghĩ đến bản thân không con, rất là cảm khái, bèn đề xuất quan gia thay Thập Tam, hoàng hậu thay Thao Thao chủ hôn, cưới gả lẫn nhau. Bởi thế, người trong cung bắt đầu chuẩn bị cho sự kiện đại hỉ "Thiên tử cưới vợ, hoàng hậu gả con" này.

Cao cô nương chưa làm lễ cập kê song hôn sự đã được thương nghị ổn thỏa, bèn quyết định làm lễ trước tiết hàn thực năm nay một ngày. Hôm ấy, hoàng hậu dẫn cung tần nghi trượng đích thân tới phủ họ Cao xem lễ, công chúa vốn cũng muốn theo, tiếc rằng lại bị cảm lạnh ngay trước đấy, đành phải ở lại trong gác dưỡng bệnh, không có việc gì làm, rất ư phiền muộn.

Sau giờ ngọ, cung nhân trong gác lấy bột táo làm bánh theo phong tục, dùng cành liễu xâu thành chuỗi, cắm lên bậu cửa, công chúa trông thấy cũng muốn đi cắm, song bị Miêu chiêu dung quát ngưng, công chúa lại rầu rĩ nằm xuống, nom đến là đáng thương.

Hàn thị kiến nghị Miêu chiêu dung mời Phạm cô nương qua chơi cùng công chúa, Miêu chiêu dung nói hôm nay hoàng hậu đi xem lễ cập kê của Cao cô nương, Phạm cô nương hẳn cũng đi theo bà rồi, Hàn thị lại khoát tay thưa: "Thần nghe nói mấy ngày nay Phạm cô nương thân thể không tiện, không thể đi xem lễ."

Miêu chiêu dung nghe vậy nhíu mày: "Quý thủy (*)?"

(*) Từ cổ Đông y, chỉ lần đầu tiên phụ nữ đến kinh nguyệt.

Hàn thị bẩm phải, Miêu chiêu dung hơi ngạc nhiên: "Nó còn chưa lớn mà..."

Hàn thị cười nói: "Nương tử ngày ngày gặp mặt nên cảm thấy chưa lớn đấy thôi, kỳ thực Phạm cô nương lớn hơn công chúa bốn tuổi, năm nay đã mười bốn rồi."

"Ôi, thấm thoắt mấy cô bé này đã lớn hết cả, xem ra chúng ta cũng già rồi." Miêu chiêu dung cảm thán rồi gọi ta lại phân phó: "Ngươi đi hỏi Phạm cô nương xem nó có bằng lòng qua đây trò chuyện với công chúa không."

Ta lĩnh mệnh, lập tức đến trung cung tìm Phạm cô nương.

Hôm ấy, vì hoàng hậu ra ngoài nên rất nhiều người theo hầu, cung nhân ở lại trông coi Nhu Nghi Điện không có bao nhiêu, tòa điện vắng lặng hẳn. Ta đi vào gác của Phạm cô nương, lại chẳng thấy cô đâu, thị nữ của cô chỉ ta ra chính điện Nhu Nghi Điện, nói cô đang thêm thuốc hương ở đó, ta bèn đi sang chính điện.

Trước chính điện đến bóng dáng một nội thị gác cửa cũng không có, ta lờ mờ cảm thấy có phần không ổn, nhưng vẫn chậm rãi đi vào.

Trong điện dường như cũng chẳng có ai. Màn gấm rủ xuống, bốn vách không một tiếng động, cái nhìn thấy trước tiên là cặp tượng nghê vàng ngồi kèm hai bên sập ngự thất bảo, hai con thú đều cao hơn trượng, trong mõm thú tràn ra vài sợi khói màu phỉ thúy, hương khói nồng nàn.

Bắt đầu từ ngày hàn thực, trong kinh sẽ phải dừng lửa ba ngày, hôm nay là lần cuối cùng đốt hương trước tiết nên hiển nhiên lượng dùng nhiều hơn hẳn so với thường ngày. Ngoài cặp tượng thú vàng ra, xà ngang trang trí trong điện cũng buông rủ hai dàn cầu hương chạm rỗng mạ vàng mạ bạc, điêu khắc tinh xảo, ở giữa có thể mở ra đóng vào, bên trong đựng thuốc hương, phần dưới quả cầu đốt than củi. Quả cầu được treo lên bằng xích bạc mảnh, rủ kín một lớp trước hai mé màn gấm, lấp lánh lóe sáng, tựa bức rèm che.

Hương thơm ấm cúng không dấu vết tỏa ra từ trong quả cầu hương mạ vàng mạ bạc, là hương Lăng Thủy thượng phẩm, hương hoa bách hợp yêu kiều, vấn vít uốn lượn trong không gian tĩnh lặng. Ta từng tới Nhu Nghi Điện rất nhiều lần song chưa lần nào thể hội bầu không khí kỳ dị như vậy, thành ra như trúng tà, chầm chậm dịch bước tại nơi hương nồng dày đặc này, lặng lẽ tiếp tục tiến vào.

Bỗng, màn che bên trái rung lên, vài quả cầu hương va vào nhau, phát ra những tiếng chuông nhỏ vụn, nghe réo rắt như tiếng nhạc ngân. Ta thoáng đổi hướng về phía phát ra âm thanh, thò đầu lại xem.

Bên trong bức rèm cầu bạc mờ mờ ảo ảo, thấp thoáng hai bóng người, ta chăm chú trông xem, nhận ra thân hình của Phạm cô nương trước tiên. Một tay cô bưng tráp đựng thuốc hương, tay còn lại cầm thìa bạc, bên cạnh là một quả cầu hương để mở chờ cô thêm hương vào.

Song lúc này, cô không rảnh để làm việc ấy.

Một người đàn ông đang ôm nhẹ lấy eo cô, cúi đầu hôn cô.

Tiếng chuông bạc mới rồi hẳn là do sự việc đột phát này gây nên, thình lình xảy ra khi Phạm cô nương đang dùng thìa thêm hương, thế nên cô gần như vẫn giữ nguyên động tác trước đó.

Thoạt đầu, người đàn ông kia chỉ mổ từng cái khe khẽ lên môi cô, cơ thể Phạm cô nương run run, đại khái là bị giật mình, nhưng cuối cùng cũng không đẩy người đó ra, thế là người đàn ông bắt đầu hôn sâu hơn.

Họ ẩn mình sau màn che, nghiêng người về phía ta, vị trí ta đứng cách họ một khoảng không ngắn, trước đó ta lại không phát ra bất kỳ tiếng động nào nên họ vẫn chưa ý thức được sự tồn tại của ta.

Cảnh tượng này làm ta kinh hoàng quá đỗi, giờ phút này chỉ muốn mau chóng thoát đi. Ta chưa từng chứng kiến chuyện nam nữ bậc này, huống hồ...huống hồ là bọn họ.

Đế tránh bị họ phát hiện, ta từ từ lùi ra sau, lẳng lặng dời bước, lại sợ họ nghe được tiếng tim đập bất an của mình. Vất vả mãi mới kề được tới cạnh cửa, lúc này mới xoay phắt người ra ngoài, hốt hoảng chạy đi.

Vừa chạy tới ngoài cửa sân chính điện thì chợt thấy đằng trước có lọng sa dẫn đường, quạt thêu che chắn hai bên, hai hàng cung nhân quây quanh một cỗ xe liễn nghênh hướng trước mặt, ngờ ngợ là nghi trượng trung cung. Ta càng muốn rảo bước nhanh hơn, chẳng ngờ vừa quay đi đã nghe thấy có người quát: "To gan! Hoàng hậu giá đáo mà không bái kiến!"

Ta đành dừng lại, quay mặt về phía hoàng hậu hành lễ đúng nghi thức.

Lúc đó, hoàng hậu đang nói chuyện phiếm với ty cung lệnh theo cùng hầu hạ, thấy ta hành động thất lễ cũng không tỏ vẻ gì, vẫn tươi cười như cũ, bước từ trên liễn xuống, hỏi: "Hoài Cát, làm gì mà cuống quít thế? Chạy về à?"

Ta vô thức đáp dạ rồi lại thấy không đúng, vội vàng đổi miệng nói không phải, nhất thời không nghĩ ra được nên giải thích thế nào, mặt nóng lan ra tận mang tai, mồ hôi như mưa.

Hoàng hậu thấy vậy cũng nhận ra có điều khác thường, nhìn ta chằm chằm, hỏi: "Ngươi đi từ Nhu Nghi Điện ra?"

Ta gật đầu thưa dạ, hoàng hậu hỏi tiếp: "Ai ở trong đó?"

Ta lưỡng lự một thoáng rồi mới nói: "Bẩm, là Phạm cô nương."

"Quan Âm?" Hoàng hậu hỏi. "Quan Âm" là nhũ danh của Phạm cô nương.

Ta một lần nữa đáp dạ, không dám nhiều lời thêm một chữ nào.

Hoàng hậu im lặng. Một hồi lâu sau mới lại cất tiếng: "Còn ai khác ở trong nữa?"

Ta không thưa gì, dẫu biết rõ rằng không trả lời câu hỏi của hoàng hậu là đại bất kính, nhưng cũng chẳng dám mở miệng tiếp.

Ấy nhưng hoàng hậu đã đoán được: "Quan gia?"

Ta cúi đầu thật sâu.

Ta không rõ vẻ mặt của hoàng hậu ra sao, cái ta nhận biết được chỉ có một góc xiêm áo bà đọng nơi khóe mắt. Người chung quanh cũng hoàn toàn bặt thinh, thời gian như đông cứng lại, chỉ ngoài chim chóc đậu trên cây hòe ven lối trong cung là vẫn đang hót giọng lảnh lót.

Có giọt nước nhỏ xuống mặt đất trước mặt hoàng hậu. Trời mưa đó ư? Ta còn đang suy nghĩ, đã thấy gấu váy hoàng hậu khẽ xoay tròn, tung bay rời khỏi tầm mắt ta.

"Nghe nói, hoa ở Hậu uyển, đang nở, rất..." Hoàng hậu vừa đi ra ngoài vừa nói, giọng điệu vẫn vững vàng, chỉ có điều ngắt quãng hơi nhiều.

Ty cung lệnh vội bắt kịp, tiếp lời: "Phải ạ, hoa đào hoa mận, kim nga ngọc tu đều đã nở rồi, nương nương không ngại thì đi xem xem."

Hai hàng cung nhân trầm lặng từng người từng người đi ngang qua trước mắt ta, theo sau hoàng hậu về phía Hậu uyển. Cuối cùng, có một người dừng lại trước mặt ta.

Ta ngẩng lên, trông thấy đôi mắt rưng rưng của Thu Hòa.

"Hoài Cát," Cô khẽ nói với ta, "Mau đi tìm Trương Mậu Tắc tiên sinh đi, mời ông ấy tới Hậu uyển."

Ta đáp ứng. Thu Hòa lau khóe mắt rồi rảo bước bắt kịp đội ngũ tùy tùng của hoàng hậu.

Ta đổi hướng chạy Nội Đông Môn ty. Trước khi rời đi, liếc mắt nhìn vết tích giọt nước đã thấm vào gạch trên mặt đất, lại ngẩng đầu nhìn lên trời... Trời quang trong vắt, không một dấu hiệu nào là muốn mưa.

Tìm được Trương tiên sinh rồi, ta kể lại sự việc xảy ra cho thầy nghe một cách vắn tắt nhất có thể, lúc đề cập tới chuyện ở Nhu Nghi Điện chỉ nói có một câu "Quan gia và Phạm cô nương ở trong điện" mà thầy đã tỏ tường hết thảy, không đợi ta nói xong đã lập tức giương tay áo đứng lên, sải bước về phía Hậu uyển.

Ta hơi ngần ngừ, cuối cùng vẫn đi theo thầy. Đến nơi, thấy hoàng hậu đang quanh quẩn giữa bóng hoa, tầm nhìn đong đưa trên hoa lá, song ánh mắt trống rỗng, hiển nhiên là nhìn hoa cỏ khắp khu vườn này mà như không thấy.

Trương tiên sinh tiến lại bên bà, cúi người gọi nhỏ: "Nương nương."

"Ồ, Bình Phủ..." Hoàng hậu thấy là thầy, giọng hơi run lên. Điều này làm ta chợt nhớ tới công chúa. Có đôi lần nàng chịu tủi ở chỗ Miêu chiêu dung cũng thường hờn dỗi không nói lời nào, nhưng nếu ta qua khuyên nàng, nàng sẽ nghẹn ngào gọi tên ta, sau đó nức nở khóc một trận.

"Nương nương, loại lúa người dẫn lục cung dâng cho quan gia trồng tháng Giêng đầu xuân đã ra mạ non rồi, sao không đến Quan Giá Điện xem thử?" Trương tiên sinh đề nghị, ngữ ý mềm mỏng.

Hoàng hậu đưa mắt nhìn thầy ngơ ngác, lát sau rốt cuộc cũng cười khẽ: "Được, đi Quan Giá Điện xem xem."

Trong một góc Hậu uyển có xây Quan Giá Điện, tháng Giêng hằng năm, hoàng hậu sẽ dẫn tần ngự lục cung lựa lấy chín loại hạt giống ngũ cốc dâng cho hoàng đế, tiếp đó hoàng đế sẽ đích thân cày cấy làm lễ tịch điền bên dưới Quan Giá Điện, đợi đến lúc ra mạ là có thể lên đây thưởng ngắm.

Hoàng hậu chầm chậm leo lên Quan Giá Điện, ta không đi theo nữa, chỉ yên lặng đứng ở một góc ruộng, nhìn bà từ xa.

Vườn tược có người chăm nom chuyên trách, mạ lúc này xanh tốt um tùm, sinh trưởng rất khả quan, nếu ngắm từ trên điện xuống, cảnh mạ non sinh sôi nảy nở nhất định là y hệt lời vị quan theo hầu nói, "Bờ ruộng dậy cỏ thơm, đất đồng xanh lúa mới", ta nghĩ, hoàng hậu xem rồi trong lòng ít nhiều cũng dễ chịu hơn vài phần.

Hoàng hậu đứng yên giữa đại điện, xiêm áo đẹp đẽ, xanh biếc đỏ thắm, ngọc trắng làm bội. Bà nhìn xuống mạ xanh um tùm dưới chân, thần thái dần khôi phục như thường, vẫn là vẻ đoan trang bình tĩnh ấy. Gió nhẹ lướt qua, thổi phồng tay áo xanh thẫm của bà, bà hơi ngẩng mặt lên, mười hai đóa hoa trang sức đính trên chiếc miện Cửu Long Tứ Phượng rung lên nhè nhẹ. Nhắm mắt lại, bà nở hé một nụ cười điềm đạm bình thản.

Mà Trương tiên sinh thì một mực nép mình bên cột trụ mái hiên phía sau bà, yên tĩnh nhìn bà chăm chú suốt một khoảng thời gian dài, không nói cũng bất động.

Thầy mặc áo bào đen, nhìn qua tưởng chừng như chỉ là một cái bóng cao lớn.


4. Cầu mưa

Chỉ trong nửa ngày, chuyện Phạm cô nương đã truyền khắp lục cung. Trước đây, con gái nuôi trong cung có không ít người được kim thượng nạp lấy, nhưng đó đều là con nuôi của hậu phi tiên đế, trong lứa vãn bối, theo lời đồn trong cung, Phạm cô nương là người đầu tiên "được vua sủng hạnh", thế nên chư nương tử hỏi thăm tin tức lẫn nhau, đều đang đợi xem hoàng hậu xử lý thế nào.

Sau khi trở về từ Quan Giá Điện, hoàng hậu đã khôi phục lại trạng thái hỉ nộ không biểu lộ thường nhật của quốc mẫu, xử lý sự vụ hậu cung đâu ra đấy như cũ, tiếp đó miêu tả cảnh tượng lễ cập kê của Cao cô nương cho kim thượng nghe trong buổi dạ tiệc, lại nhắc tới Phạm cô nương như không có việc gì xảy ra, nói Phạm cô nương đã lớn mà bà lại không nỡ thả con gái nuôi xuất cung, nên xin kim thượng giữ Phạm cô nương lại bên người để hai mẹ con khỏi lo sầu vì biệt ly.

Nói điềm tĩnh thản nhiên như thế làm kim thượng cũng không khỏi cảm thấy mất tự nhiên, nhưng cuối cùng vẫn biết thời biết thế mà "nghe lời cầu thỉnh".

Hoàng hậu bèn lựa một gác khác phân cho Phạm cô nương ở, điều không ít cung nhân sang đó hầu hạ rồi bàn bạc các công việc liên quan với ty cung lệnh và thượng cung, chọn ngày lành đợi kim thượng chính thức gia phong.

Lục cung xôn xao, bàn tán sôi nổi, nguyên do dính dáng tới chuyện này trải qua đủ kiểu suy diễn mà đẻ ra muôn vàn phiên bản, trong đó có một phiên bản là, hoàng hậu nhận nuôi Phạm cô nương vốn là để dùng cô phân chia sủng ái với Trương mỹ nhân, Phạm cô nương "quyến rũ" kim thượng cũng là mưu kế của hoàng hậu. Rất nhiều người nghe nói ta từng chứng kiến chút chuyện trong Nhu Nghi Điện, đều hào hứng chạy tới hỏi ta, ta lặng im không đáp, họ lại muốn ta chí ít cũng miêu tả lại sắc mặt hoàng hậu khi biết việc này, hỏi ta lúc đó bà có đắc ý hay không. Ta không trả lời bất kỳ ai, kể cả với Miêu chiêu dung cũng chỉ nói "Không hề nhìn thấy".

Chuyện này có nằm trong dự liệu của hoàng hậu hay không thì ta cũng không rõ, điều duy nhất có thể khẳng định là, giọt nước kia không phải trời đổ mưa. Nhưng ta sẽ không đề cập đến chi tiết này với người khác, ta nghĩ hoàng hậu bây giờ cũng chẳng buồn biện giải hay chứng minh điều gì với ai.

Còn chưa gia phong, kim thượng đã thường xuyên tới gác Phạm cô nương, về danh vị của cô, người trong cung cũng có rất nhiều suy đoán. Kim thượng nạp tần ngự thông thường ban đầu đều gia phong ngự thị, coi trọng hơn chút thì đồng thời phong thêm là huyện quân hoặc quận quân, không nằm trong hàng mệnh phụ ngũ phẩm, về sau sẽ từ từ thăng lên. Tuy nhiên hiện giờ trong cung đang đồn rằng Phạm cô nương là con nhà thanh bạch, lại là con gái nuôi của hoàng hậu, thế nên đế hậu đều có ý phong cô phẩm cấp cao hơn, có khả năng ngay từ đầu đã phong cô làm tài tử hoặc quý nhân, thậm chí còn có thể là tứ phẩm mỹ nhân.

Lúc nhắc tới việc này, quá nửa các nương tử đều mở cờ trong bụng, cơ hồ nhìn nhận rất lạc quan, nguyên nhân cũng chẳng khó đoán, họ đều đang chờ xem mỹ nhân mới áp đảo mỹ nhân cũ.

Trương mỹ nhân bị những lời đồn này làm cho đứng ngồi không yên, thường xuyên chầu chực ở hậu điện triều đình chờ kim thượng, có mấy lần kim thượng không nhịn được nói thẳng, muốn ả đừng tới nữa. Tin tức truyền ra, lại trở thành trò cười cho lục cung.

Nghĩ, ắt hẳn Trương mỹ nhân vẫn chưa từ bỏ ý định tìm kiếm đối sách. Mấy ngày nay người trong gác ả bận rộn vô cùng, chốc chốc lại bắt gặp Giả bà bà hoặc hoạn giả trong gác ả ra vào trong ngoài thành cung, mặt mày sầm sì, bước chân vội vã.

"Cô ả lại muốn đi tìm Giả tướng công thương lượng đây mà." Miêu chiêu dung ngầm bình luận thế, "Nhưng lần này quan gia nạp tân sủng là đề nghị của hoàng hậu, xuất thân của Phạm Quan Âm lại tốt, Giả tướng công dẫu có dâng tấu can gián, quan gia cũng có lý do cự tuyệt, không để ý tới."

Lời bà vốn không sai, nhưng đại hạn kéo dài từ năm ngoái đến năm nay lại khiến chuyện này xảy ra biến số.

Làm vua ai cũng sợ thiên tai, cứ khi nào gặp phải tai ách là lại có đại thần dâng sớ yêu cầu hoàng đế tự xét lại bản thân, phê bình ngài cầm quyền trị nước không ổn thỏa nên mới gây ra thiên biến.

Đã sang tháng Ba mà trời vẫn không mưa, quan gia vì chuyện này mà sầu lo khôn xiết, chẳng những tránh trong chính điện (*), giảm bớt bữa ăn mà còn liên tiếp cầu mưa trong cung, thực thi đủ loại thuật cầu mưa, thậm chí còn dẫn cung nhân và hoạn quan đốt hương trên tay (**) cầu khấn, song trước sau vẫn chẳng thấy trời giáng cho trận mưa giải hạn.

(*) Chính điện chỉ gian điện nằm chính giữa cung điện hoặc miếu thờ, vào thời cổ, khi đất nước gặp thiên tai họa nạn, vua sẽ tránh rời khỏi chính điện, lấy ý tự trách bản thân để tiêu tai trừ họa.

(**) Đặt hương lên cánh tay đốt cúng bái thần phật để tỏ ý hết sức chân thành.

Tể tướng Giả Xương Triều dâng tấu can gián vào chính lúc này, nói trong cung quá nhiều phụ nữ, xin thả bớt cung nhân xuất cung để dẹp yên tai ách. Kim thượng cũng bằng lòng, hồi cung rồi lại sai lấy cung tịch, chọn ra vài người không thân cận lắm định thả cho xuất cung.

Hôm ấy trong cung vẫn thực hiện nghi lễ cầu mưa, kim thượng như thường lệ tự viết sớ cúng, lúc nhấc bút, Trương mỹ nhân chợt tiến lên nói: "Thần thiếp nghe nói sớ cúng nên viết bằng máu của người cầu khấn mới bày tỏ được thành ý. Nhiều năm nay thiếp vẫn luôn được nhận sự quan tâm sâu sắc của bệ hạ mà không cần báo đáp, hôm nay cầu mưa, xin bệ hạ cứ lấy máu thần thiếp mà dùng, coi như thành toàn cho tâm nguyện phân ưu cùng ngài của thần thiếp."

Lời còn chưa dứt đã lấy một con dao găm ra, rạch một nhát lên cánh tay trái của mình.

Thấy máu tươi dầm dề, kim thượng cả kinh, bắt lấy cánh tay ả bịt miệng vết thương lại, gọi người đến băng bó. Trương mỹ nhân lại nhẹ nhàng đẩy ngài ra, khăng khăng đòi người lấy chén tới, nhỏ máu vào rồi mới chịu băng bó thương tích.

Kim thượng cảm động vô cùng, an ủi ngợi khen không ngớt, Trương mỹ nhân chỉ cười, nói: "Có thể phân ưu cho bệ hạ, chút máu thịt này thần thiếp nào có tiếc gì." Rồi nhu mì giục ngài mau viết sớ cúng.

Bước cuối cùng của nghi lễ hôm đó là gọi cung nhân được lệnh xuất cung tới, bày tỏ thành ý kim thượng chấp thuận lời can gián cắt giảm cung nữ. Đợi đến lúc thượng cung điểm danh từng người, để những người cung nhân này đi qua hành lễ bái biệt xong, Trương mỹ nhân lại run rẩy đứng lên, hạ bái kim thượng rồi nói: "Đại hạn lần này kéo dài hiếm thấy, nếu những cung nhân thả đi chỉ là mấy kẻ có cũng được chẳng có cũng xong thì khó mà thể hiện được thành ý cầu mưa của bệ hạ và lục cung. Con gái nuôi Từ thị của thần thiếp trước nay vẫn luôn là đứa bé thần thiếp yêu thương tha thiết, song hiện giờ trời giáng tai ách, thần thiếp nguyện dứt bỏ tình mẹ con, thả cho Từ thị xuất cung, chỉ mong có thể dùng điều này làm cảm động trời xanh, cầu được mưa xuống, tiêu tai cho ngài."

Ả vừa nói xong, lại có hai vị nương tử thường ngày vẫn qua lại thân thiết với ả cũng bước ra khỏi hàng hạ bái, ngỏ lời nguyện cho con gái nuôi của mình xuất cung. Kim thượng trầm ngâm, hồi lâu không cất lời. Chúng tần ngự có con gái nuôi còn lại có mặt tại buổi lễ đều như đứng đống lửa như ngồi đống than, một lát sau, lại có nương tử quỳ xuống tán thành, ngay sau đó cả đám người lục tục quỳ xuống hết cả, đều bày tỏ mình bằng lòng thả con gái nuôi. Trong đó khẳng định có hơn nửa vốn không có ý định này, nhưng tình hình như vậy mà không tỏ thái độ theo đám đông thì mình lại thành ra có vẻ không chịu hi sinh chút gì, chẳng khác nào không trung quân ái quốc.

Trương mỹ nhân thấy vậy cười cười, vỗ ngực nói với kim thượng, hơi thở có phần hổn hển: "Chúc mừng bệ hạ, bây giờ lục cung đã đồng lòng nguyện thả cho con gái nuôi xuất cung, trời cao tất cảm nhận được, chắc chắn sẽ sớm giáng mưa giải hạn." Nói đoạn, khoan thai quay sang hoàng hậu, nhẹ giọng hỏi: "Hoàng hậu, thần thiếp nói đúng chứ?"

Hoàng hậu không đáp, chỉ xoay người về phía kim thượng, khom lưng nói: "Bệ hạ, hiện giờ thần thiếp chỉ có một đứa con gái nuôi duy nhất trong cung, đi hay ở là do bệ hạ làm chủ."

Kim thượng im lặng chắp tay nhìn trời, vẻ mặt nặng nề. Một hồi lâu sau mới nói: "Để ngày mai trẫm thương nghị với tể tướng rồi quyết định sau."

Kết quả thương nghị với Giả tướng công hoàn toàn có thể suy ra được. Dưới sự tán thành cực lực thậm chí là cổ động của Giả Xương Triều, kim thượng hạ chỉ thả con gái nuôi Phạm thị và Từ thị của hoàng hậu và Trương mỹ nhân cùng mười thiếu nữ khác xuất cung.

Bầu không khí lễ bái biệt sau cùng thê lương khôn tả, mấy cặp mẹ con ôm nhau khóc không thành tiếng. Phạm cô nương hành lễ trước kim thượng xong, lại chạy sang nhào vào dưới chân hoàng hậu, phủ phục bái lạy mà nức nở: "Nương nương, con sai rồi..."

Hoàng hậu kéo cô dậy, lau nước mắt cho cô, nghĩ đi nghĩ lại, muốn nói lại thôi, cuối cùng chỉ buông một tiếng thở dài, rưng rưng ôm cô vào lòng.

Lúc đến lượt Từ cô nương hành lễ thì xảy ra chút việc ngoài ý muốn. Thoạt đầu cô ngơ ngẩn quỳ xuống, Giả bà bà thấy cô không có động tác gì tiếp bèn nhắc nhở cô bái biệt kim thượng, nào ngờ cô đột nhiên kích động, xoay người lê gối mấy bước, túm lấy vạt váy Trương mỹ nhân, gào khóc: "Sao tỷ tỷ lại muốn đuổi con ra ngoài?"

Trương mỹ nhân sợ hết hồn, phản ứng lại được rồi thì ra chiều bi thương nói: "Tỷ tỷ cũng không nỡ bỏ con, nhưng nếu cứ luyến tiếc mãi không thả người thân thiết xuất cung thì mưa giải hạn..."

"Không phải! Tỷ tỷ căn bản là không thích con!" Từ cô nương không hề muốn nghe ả nói, vừa khóc vừa kể lể, "Người tỷ tỷ thích nhất chỉ có Ấu Ngộ... Kể từ khi tỷ tỷ sinh ra nó, gần như chẳng bao giờ nhìn đến con... Con nghĩ, nếu Ấu Ngộ không còn, tỷ tỷ hẳn sẽ tốt với con hơn chút ít, nhưng tỷ tỷ vốn chẳng có ý định gặp con, đối xử với Chu muội muội còn tốt hơn với con..."

"Ấu Ngộ..." Trương mỹ nhân như bị cái tên này đâm cho một nhát, khẽ lẩm bẩm hai chữ này, thình lình vươn cả hai tay tóm chặt cánh tay Từ cô nương, cơ hồ bóp nghiến lấy cô, mắt bắn ra tia sáng dữ dằn: "Là ngươi, thì ra là ngươi..."

Từ cô nương bị đau hét ầm lên, ra sức giãy giụa. Giả bà bà thấy tình thế không ổn, vội đi qua tách họ ra, siết chặt Từ cô nương vào lòng mình, vừa lấy tay bịt miệng cô vừa lấp liếm: "Con bé nó đau lòng quá, đầu óc không được tỉnh táo cho lắm, tạm thời miễn lễ đi thôi." Rồi liên tiếp nháy mắt với Trương mỹ nhân.

Trương mỹ nhân ngớ ra, dần tỉnh táo lại, nhếch một nụ cười nhạt nhòa, dịu giọng nói với Từ cô nương: "Con bé ngốc này, tỷ tỷ không thích con thì còn thích ai? Con tạm về trước đi, ngày sau tỷ tỷ lại đi thăm con."

Giả bà bà được Trương mỹ nhân ra dấu, nửa ôm nửa kéo Từ cô nương ra ngoài, Từ cô nương vùng vẫy lắc đầu, khuôn miệng bị bưng phát ra những tiếng "Ô ô", song không bật ra được chữ nào, nước mắt ồ ạt chảy xuống theo kẽ hở ngón tay Giả bà bà.

So ra, nhóm Phạm cô nương rời đi yên bình hơn hẳn, không ai phản kháng, chỉ ai ôm mặt người nấy mà khóc ròng. Họ ngồi xe ra khỏi cửa cung, một hàng hơn mười xe liễn, khói bụi mù mịt, tiếng khóc đau thương uốn lượn vấn vít, cứ thế một đường chạy ra hoàng thành.

Dõi nhìn họ càng lúc càng xa, ta chợt nhớ tới, nữ tử trong cung rời khỏi hoàng thành đều là vừa đi vừa khóc.

Hoặc giả, hẳn vẫn có ngoại lệ. Ta nghĩ.

Như Thu Hòa chẳng hạn, tương lai khi cô xuất cung, hẳn là sẽ mừng vui khấp khởi, bởi cuộc sống mà cô mong đợi tựa như một bức họa cuộn tròn, đến lúc ấy mời từ từ mở ra trước mặt cô, bên trong ẩn chứa biết bao nhiêu ngày lành cảnh đẹp, chuyện vui hoan lạc đang đợi cô tỉ mỉ hưởng thụ.

Hay như công chúa vậy, nàng sinh ra ở trong cung, chẳng biết quãng đời còn lại liệu có ngày nào kim thượng sẽ chọn một phò mã đô úy cho nàng, mặt mày rạng rỡ tiễn nàng xuất cung hay chăng... Kẻ sĩ đương triều thiếu gì người thông tuệ thanh cao, hoàng đế thân cư triều đình, ngày ngày chứng kiến, không khỏi có lúc gặp được người tài tuấn, sau này kén rể cho cô con gái độc nhất, chẳng hay sẽ chọn nhân vật siêu quần xuất chúng nhường nào... Ngày công chúa xuất giá, trong lòng nhất định cũng sẽ rất hoan hỉ...

Ta đưa mắt về phương xa, nghĩ đến thất thần, không để ý có người tới gần, mãi đến khi cô thò tay huơ huơ mấy cái trước mặt ta, ta mới phản ứng lại, tập trung nhìn kỹ, hóa ra là Thu Hòa.

"Huynh nghĩ gì mà ngẩn người ra thế?" Cô mỉm cười hỏi, vì ban nãy khóc cho Phạm cô nương nên hiện giờ hốc mắt vẫn còn hoe đỏ, "Sao lại thở dài?"

"Hả?" Ta sững sờ hỏi ngược lại, "Tôi có thở dài à?"

Nhóm Phạm cô nương rời cung đã mấy ngày mà không thấy có mưa rơi, kim thượng trong cơn giận dữ đã biếm Giả Xương Triều xuống làm Võ Thắng tiết độ sứ, điều đi phủ Đại Danh kiêm chức Hà Bắc an phủ sứ, nhân cách chức đuổi ra khỏi kinh thành.

Một ngày trước khi tuyên bố bãi tướng, Giả bà bà vất vả bôn ba hết ra thành lại vào cung, cuối cùng chẳng được tác dụng gì, ngược lại còn bị người chú ý đến trận bận rộn này của mụ moi ra tình tiết vụ bãi tướng Giả Xương Triều.

Thì ra, sau khi thả cung nhân xuất cung, kim thượng chờ không đến cơn mưa giải hạn, bèn ngầm tìm đài quan Lý Giản bàn bạc, Lý Giản nói: "Bệ hạ gần như đã thử tất cả phương pháp cầu mưa, duy chỉ có 'sách miễn tam công' trong sách thiên tai thời Hán là chưa từng thử."

Vì chuyện Phạm Quan Âm, kim thượng vốn đã sinh lòng căm tức Giả Xương Triều, nghe xong lời ấy, ý định bãi tướng trong đầu lại càng thêm mãnh liệt, bèn hỏi thêm ý kiến ngự sử trung thừa Cao Nhược Nột, Cao Nhược Nột cũng thẳng thắn: "Âm dương bất hòa là tại tể tướng."

Gián thần Hồng Phạm tán đồng, lại đề cập chuyện Giả Xương Triều nhiều lần khắc khẩu với Ngô Dục trên triều, nói: "Đại thần không nghiêm, mưa sao đúng thời."

Kim thượng đập bàn, lập tức sai toả viện thảo chiếu, mệnh Hàn lâm học sĩ viện viết lệnh bãi tướng.

Hàn lâm học sĩ viện lúc gặp việc cơ mật trọng đại như soạn thảo chiếu thư sẽ phải đóng cửa viện, cắt đứt qua lại với bên ngoài trước để ngừa làm lộ bí mật, gọi là "toả viện". Giả bà bà vốn mua chuộc vài nội thị hầu hạ bên hoàng đế, khi ấy nội thị thấy kim thượng cho gọi chư thần thảo luận việc Giả Xương Triều đã lập tức thông báo với Giả bà bà.

Giả bà bà và Trương mỹ nhân hết sức lo lắng, định liên lạc với bộ hạ Giả thị, nhưng giờ đó đã tan triều, những thần tử này đều đã rời cung. Giả bà bà bèn tìm cớ muốn ra ngoài cung, chẳng ngờ bị Trương Mậu Tắc tiên sinh cản lại, nói trời đã tối, xuất cung bây giờ không thể về kịp trước khi đóng cửa, cho nên tuyệt đối không thể đi ra. Giả bà bà phẫn nộ quay về, sau lại chạy đến trước cửa Hàn lâm học sĩ viện canh chừng, rồi lại bị thị vệ giữ cửa đuổi về. Khó khăn lắm mới đợi được đến lúc trời sáng, lại đi Học sĩ viện, chỉ thấy cửa viện mở ra, học sĩ thừa chỉ giương cao chiếu lệnh ngênh ngang đi qua trước cái nhìn trân trân của mụ, vào Thủy Củng Điện diện thánh. Chừng nửa canh giờ sau, Giả Xương Triều đã bị bãi tướng ủ rũ cúi đầu từ trong điện đi ra...

Mà ngay sau khi ông ta bãi tướng, mưa lập tức tí tách rơi liền mấy ngày.

Chư vị nương tử miêu tả chuyện này sinh động như thật, người nghe thường đều cười to, chỉ duy công chúa nghe xong là mong manh hỏi: "Phạm tỷ tỷ còn quay lại chứ ạ?"

Miêu chiêu dung không đáp, gọi Gia Khánh Tử và Tiếu Diệp Nhi lại, bảo họ hầu công chúa ra sân chơi xích đu.

"Đã lấy danh cầu mưa mà đưa đi thì sao trở lại được?" Công chúa đi rồi, Miêu chiêu dung mới nói, là nói với mấy nương tử ngồi xung quanh.

Du tiệp dư cũng than: "Kể ra con bé Quan Âm này cũng đáng thương thật đấy, nữ nhân từng hầu hạ quan gia ai dám cưới chứ? Sau này chỉ còn nước làm ni cô thôi."

"Lại chẳng à." Miêu chiêu dung thờ ơ khều khều cành hoa cắm trong chiếc bình bên người, "Có khác nào cây đào đang yên đang lành, xuân nay mới nở được bông thứ nhất đã bị người ta chặt xuống làm củi đâu."


5. Tào lang

Ngày cưới của Cao cô nương ngày càng kề cận, chuyện cưới xin của công chúa theo đó cũng trở thành đề tài tán gẫu của người trong cung. Năm nay nàng lên mười, đã tới lúc có thể bàn việc hôn nhân. Nhiều ngày nay, các nương tử tới gác Miêu chiêu dung sau khi trò chuyện dăm câu về nghi trượng hồi môn của Cao cô nương hầu như đều sẽ đề cập tới công chúa, hỏi Miêu chiêu dung: "Quan gia định chọn công tử nhà nào làm phò mã?"

Miêu chiêu dung chỉ lắc đầu: "Ta cũng đang muốn biết đây, nhưng ai mà đoán được quan gia nghĩ thế nào chứ? Dù sao cũng chẳng trông mong được ngài chọn một trạng nguyên."

Tục lệ quốc triều khác với thời Tùy Đường, hôn nhân không hỏi công huân, kẻ sĩ kết thông gia với dân thường đã dần trở thành phong tục. Bởi triều đình coi trọng kẻ sĩ nên quan viên trong triều đều là thư sinh. Rất nhiều quyền thần khanh tướng vốn xuất thân hàn vi, song có thể nương khoa cử mà leo lên hàng đại thần phụ chính thanh cao sang quý, thế nên từ thế gia vọng tộc tới thân sĩ phú hào đều thích kén tiến sĩ làm rể. Thậm chí mỗi bận yết bảng khóa thi, nhà có con gái đến tuổi còn thường xuyên canh trực dưới bảng, cả thành tranh đoạt lang quân áo xanh (*).

(*) Nguyên văn: 绿衣郎 (lục y lang), chỉ thanh niên khoa bảng tài hoa anh tuấn.

Tể chấp trong triều mà có con gái thường cũng hay kén rể từ nhóm tiến sĩ trẻ tuổi, thậm chí là gả con cho trạng nguyên, chẳng hạn như tiền tham tri chính sự Tiết Khuê đã lần lượt gả hai cô con gái cho Vương Củng Thần thi đỗ trạng nguyên, mà vị con rể còn lại của ông thì chính là Âu Dương Tu đăng khoa cùng năm với Vương Củng Thần.

Tuy nhiên, hoàng đế thì lại không thể chọn trạng nguyên tiến sĩ làm rể. Bởi xưa nay ngoại thích tham dự vào chính sự quá nhiều thường sẽ dẫn đến hỏng loạn, gia pháp tổ tông quốc triều rất nghiêm khắc với ngoại thích, không trao thực quyền cho ngoại thích, chỉ nuôi dưỡng bằng bổng lộc tước vị cao, không để họ có cơ hội lộng quyền độc tài. Nếu trước khi thông gia với hoàng gia tôn thất mà trong nhà ngoại thích đã có sẵn người làm quan nắm giữ thực quyền thì thông thường cũng phải tiến hành miễn chức rồi nhận chức suông. Trạng nguyên tiến sĩ là người được tuyển để làm đại thần chấp chính trong tương lai, đương nhiên là không thể kết thông gia với hoàng thất. Kim thượng đối mặt với thanh niên tài tuấn khắp triều cũng từng cười nói với hậu phi: "Ai cũng bảo con gái hoàng đế không phải lo chuyện cưới xin, ta thấy cũng chưa chắc. Ta mà có ý định chọn lang quân áo xanh nào làm phò mã, hắn ắt sẽ thà chết không chịu, đài gián cũng sẽ mắng ta phá hủy tiền đồ người ta."

Hiện giờ hoàng thất cưới vợ gả con đa phần là kén từ những "hộ suy cũ" mà Chương Hiến Minh Túc hoàng thái hậu Lưu thị đời tiên đế đã chỉ thị, tức những thế gia có tổ tiên vốn là công thần khai quốc song đời sau không còn làm công khanh đại phu nữa, hoặc giả, hậu nhân ba đời của khanh tướng áo vải không xuất thân từ danh môn cũng được, nhưng điều kiện tiên quyết đều là trong tộc không có ai ngồi ở ngôi cao trong triều đình đương thời.

Đương nhiên, dẫu cho phạm vi tuyển chọn phò mã có thu nhỏ đến những hộ suy cũ và nhà khanh tướng áo vải thì thiếu niên ưu tú có khả năng sánh đôi cùng công chúa cũng chẳng phải là không có.

Có một lần, Miêu chiêu dung mở miệng dò xét ý kén rể của kim thượng, kim thượng nói thế này: "Đợi Thập Tam hồi cung phục diện bái môn, ngoại thích vào cung chúc mừng, ta sẽ cho nàng gặp một người."

Sau hôn lễ, chàng rể quay lại nhà nàng dâu, bái lạy bố mẹ vợ được gọi là "bái môn", nếu đi ngay ngày kế sau hôn lễ thì gọi là "phục diện bái môn". Cao cô nương lấy chồng với thân phận "con gái hoàng hậu", dùng một nửa nghi trượng công chúa, về nhà chồng từ trong cung, thế nên sang ngày kế Thập Tam Đoàn Luyện sẽ hồi cung phục diện bái môn, mà hôm ấy tôn thất ngoại thích đều sẽ vào cung ăn mừng. Nghe ý của kim thượng, có vẻ như sẽ chọn phò mã trong số ngoại thích.

Sau đó, Miêu chiêu dung thuật lại câu trả lời của kim thượng cho Du tiệp dư nghe, tiệp dư cười: "Không phải quan gia chỉ đại công tử nhà Tào lang đấy chứ? Em nghe hoàng hậu nói hôm đó Tào lang sẽ dẫn hai công tử nhà ông ấy vào cung, trong đó đại công tử bằng tuổi công chúa, tài mạo cũng tương xứng."

Miêu chiêu dung mừng rỡ khôn xiết, chắp hai tay niệm: "A di đà phật, nếu là công tử Tào lang thì tốt quá rồi!"

"Tào lang" chỉ cháu trai Tào Bân – công thần khai quốc Đại Tống –, em trai hoàng hậu, tên là Tào Dật. Ông là người điềm đạm, thông hiểu âm luật, thiện cờ vây giỏi cung tiễn, thơ văn bút nghiên đều vô cùng tinh thông.

Hơn nữa, tướng mạo ông rất đẹp. Khí chất hoàng hậu như lan chi nơi thâm cốc, ngụ chốn không người vẫn ngát hương, nhưng nếu chỉ bàn về gương mặt thôi thì lại chẳng khiến người ta cảm thấy choáng ngợp, mà vẻ đẹp của Tào Dật thì không ai có thể ngó lơ cho đặng. Nước da ông trắng trẻo, tóc màu đen tím kỳ lạ, mơ hồ có ánh đỏ, được tôn là người cõi tiên. Tuy dung nhan thanh tú song lại chẳng hề yếu đuối, thân thủ ông khi cưỡi ngựa bắn cung múa kiếm đều rất nhanh nhẹn, phóng thái tiêu sái nhàn tản mà khí phách.

Từ thuở thiếu thời, ông đã ra vào cung cấm các dịp lễ tết cỗ tiệc khá thường xuyên, tần ngự cung nhân trông thấy đều rất vui mừng, tranh nhau vén mành ngắm Tào lang. Lần đầu ta chứng kiến cảnh sôi nổi ấy đã từng nghĩ, mỹ nhân được viết trong chương "Dung chỉ" cuốn "Thế thuyết tân ngữ" cũng chỉ đến thế này là cùng.

Ông mang danh là người tộc hoàng hậu nhưng không hề ngạo mạn kiêu căng, hai mắt trong suốt, lại như chẳng màng đến giang sơn bốn bể. Nghe nói lần đầu kim thượng trò chuyện với ông, phát hiện ra ông thích đọc Lão Trang, chỉ tính ngôn từ thôi đã tĩnh lặng tự nhiên, vô vi chính trị (*), thế nên kim thượng rất thích, ban thưởng khá nhiều, ông cũng chẳng lấy làm kinh hãi hay mừng rỡ, chỉ chắp tay tạ ơn. Bởi vậy, kim thượng thường hay khen ông với người khác, nói: "Tào lang tính tình tốt, phong độ đẹp, tương lai có thể vào triều làm sử quan."

(*) Chủ trương chính trị cơ bản của Đạo gia, Lão Tử và Trang Tử đều có quan điểm như vậy, nôm na đại khái thì cũng gần gần như áp dụng "lấy tĩnh chế động" vào đạo trị quốc.

Tào Dật vừa đến tuổi nhi lập, dưới gối có hai con trai, con trưởng tên Bình, con thứ tên Dụ. Tào Bình năm nay vừa tròn mười tuổi, tuy còn nhỏ song văn tài võ nghệ đã mang nhiều âm hưởng của cha, thích đọc sách sử, chữ viết rất đẹp, thiện tài cung tiễn, buổi tối tắt đèn giương cung vẫn có thể bắn trúng, trong cung nghe nói không ít, thế nên Miêu chiêu dung rất đỗi vui mừng, mong chờ kén cậu làm rể.

Đầu hạ năm ấy, Thập Tam Đoàn Luyện và Cao cô nương phụng chỉ thành hôn. Đã là "con trai quan gia" cưới "con gái hoàng hậu" thì tất nhiên là rầm rộ hơn bao giờ hết, dân chúng Đông Kinh ào hết ra đường, hàng ngàn hàng vạn người đổ xô đi xem kiệu liễn nghi trượng.

Ngày kế, Thập Tam Đoàn Luyện dẫn nàng dâu hồi cung phục diện bái môn, tôn thất ngoại thích cũng ai dắt gia quyến nhà người đó vào cung ăn mừng. Hoàng hậu ngồi trong thủy tạ ở Hậu uyển tiếp kiến ngoại thích, trước ngự tọa buông bức mành châu, mẹ con Miêu chiêu dung ngồi sau mành bên cạnh hoàng hậu.

Bởi có câu kén rể của kim thượng nên ta để ý đến cha con Tào Dật nhiều hơn cả. Tuy Tào Dật là em trai ruột của hoàng hậu, song hoàng hậu cũng không đối xử gì đặc biệt với ông, vẫn cách một bức mành châu, khoảng cách giữa hai người chừng ngoài hai trượng, lời nói cũng chẳng phải hỏi han ân cần. Hoàng hậu hỏi, Tào Dật đứng bên ngoài trả lời, thái độ ông nhã nhặn, giọng không lớn nhưng nhấn chữ rõ ràng, người trong ngoài mành đều có thể nghe thấy.

Tào Bình và Tào Dụ đi theo cha, bởi hai cậu con trai còn nhỏ nên hoàng hậu gọi họ vào trong mành, ôn hòa hỏi chuyện bài vở đèn sách, hai cậu đối đáp ung dung, ngôn hành rất có khí chất thế gia. Miêu chiêu dung một mực quan tâm tới hai vị tiểu công tử, đợi hoàng hậu hỏi xong lại gọi họ tới bên mình, ngắm nghía trái phải, niềm vui thích nhuốm lên đuôi mày, mệnh nội nhân lấy quà tặng đã chuẩn bị từ trước ra đưa cho họ, nhưng bị hoàng hậu cản lại.

Hoàng hậu cười mỉm: "Hai đứa nó là bé trai, cả ngày chạy nhảy nghịch ngợm, cho bọn nó đeo mấy thứ khóa vàng mặt ngọc này chỉ e sẽ bị đánh hỏng, cho hai đứa nó mấy cái kẹo ăn là được rồi."

Ngày sau đó sai người dâng quà thưởng cho hai cháu trai – thực sự là kẹo, hai chiếc kẹo đường sữa hình sư tử, quà này so với trẻ con nhà khác ít ỏi hơn nhiều.

Chiêu dung lại tỉ mỉ hỏi sinh nhật của hai cậu con trai, thấy Tào Bình lớn hơn công chúa hai tháng, bèn bảo công chúa gọi cậu là ca ca. Công chúa gật đầu, gọi "ca ca", Tào Bình tức thì cúi người thi lễ, trong miệng rất cẩn thận gọi nàng "công chúa". Công chúa cười cười, lại gọi Tào Dụ là "Tào đệ đệ", Tào Dụ lanh lợi lập tức gọi nàng là "công chúa tỷ tỷ". Người nghe đều cười, bầu không khí vô cùng hòa thuận, một khắc ấy, ta vốn tưởng rằng nhân duyên công chúa đã được xác định mỹ mãn.

Thập Tam Đoàn Luyện và Cao cô nương bái lạy kim thượng ở tiền điện xong thì qua đây, hoàng hậu giữ họ lại thủy tạ trò chuyện, thấy vẫn còn cách giờ mở tiệc chút thời gian, mà trong số các nội thị theo hầu chung quanh, ta là người gần tuổi với hai vị tiểu công tử nhất, bèn bảo ta dẫn họ vào vườn chơi, giải lao đôi chốc.

Hôm ấy, sân chơi các trò bắn liễu, đánh cầu, gõ viên trong Hậu uyển đều đã được chuẩn bị xong xuôi cho tôn thất quý thích tiêu khiển. Cờ màu tung bay trong sân gõ viên, hai vị tiểu công tử dừng chân ngó nhìn. Ta thấy họ có vẻ có hứng thú, bèn gọi người mang vài bộ gậy bóng cao thấp không đồng đều tới cho họ tự chọn rồi vào sân gõ viên.

Thoạt đầu họ chưa chia tổ thi đấu, chỉ tùy ý vung gậy gõ viên, ta lặng lẽ quan sát, phát hiện ra kỹ thuật của họ rất thuần thục, hiển nhiên là thường xuyên chơi trò này. Lát sau, họ dần cảm thấy không thú vị, bèn hỏi ta có biết chơi không. Hai năm qua ta đã lục tục chơi kha khá lần, đáp biết, họ liền kiến nghị ta vào sân chia tổ thi đấu với họ. Ta thấy trong sân chỉ có ba người chúng ta, bèn nói: "Nếu muốn thi đấu thì ít nhất còn cần một người nữa."

"Để ta!" Đúng lúc này, chợt nghe ngoài sân có người cất tiếng, ta ngoảnh lại nhìn, phát hiện là công chúa.

Nàng không đợi bọn ta trả lời đã chạy vào trong sân, đứng bên cạnh ta, cười với hai công tử họ Tào: "Tào ca ca và Tào đệ đệ một tổ, ta và Hoài Cát một tổ."

Tào Bình hơi do dự, Tào Dụ còn nhỏ tuổi nên không lo nghĩ gì nhiều mà vỗ tay reo hay: "Hóa ra công chúa tỷ tỷ cũng biết chơi gõ viên!"

Công chúa cười với cậu rất tự tin, như thể đã nắm chắc tất cả trong lòng bàn tay, rồi nói với ta: "Chọn gậy bóng cho ta."

Ta nhỏ giọng hỏi nàng: "Công chúa biết chơi trò này?"

Nàng cũng thầm thì: "Huynh có thể dạy ta mà."

Lúc nàng đang dạt dào hứng thú với chuyện gì thì rất khó có thể khuyên nàng từ bỏ. Lại nghĩ, tuy hai vị công tử họ Tào là con trai nhưng dù sao vẫn còn rất nhỏ tuổi, vả lại chơi trò này không có tiếp xúc thân thể, con gái trong cung thi thoảng cũng chơi, thế nên cuối cùng ta vẫn bằng lòng, đi chọn gậy bóng đưa cho nàng.

Chia tổ thi đấu, nếu một tổ trong ba lượt đánh có thể đánh bóng vào lỗ bóng tương ứng thì được tính là một quả, cuối cùng căn cứ theo số quả vào của mỗi tổ để phân thắng bại. Biểu hiện ban đầu của công chúa tất nhiên là thảm không nỡ nhìn, gậy đánh xuống căn bản không chạm được tới bóng mà ngược lại, cây cỏ vô tội bên cạnh thì bị xúc mất cả mảng to. Về sau, tuy đã đánh được tới cầu nhưng nàng mở mắt to hết cỡ cũng chẳng tìm được chỗ cầu rơi đằng trước, bởi vì cầu rơi ra phía sau nàng...

Tình hình như vậy, thi đấu tất nhiên là không cách nào triển khai, thế là ba người chúng ta cùng xúm lại bên nàng, ai nấy đều mở miệng dạy nàng kỹ thuật cơ bản, từ dáng đứng, dáng cầm gậy cho đến động tác vung gậy và góc độ tiếp xúc bề mặt khi đánh bóng, uốn nắn từng cái một. Cũng may khả năng lĩnh ngộ của công chúa hãy còn được tính là không tệ, chẳng bao lâu sau, đánh bóng đã dần ra dáng hơn.

Vươn cánh tay ra trước, gậy bóng hướng lên trên vai phải, vung xuống, mặt gậy bóng va thẳng vào một bên bóng mã não, sau khi đánh bật bóng ra, gậy bóng thuận thế hất lên, từ phía trên bên trái thu ra sau đầu, phác ra một hình cung lưu loát... Sau khi làm đúng mọi động tác, công chúa đánh ra một cú hoàn mỹ, quả bóng mã não vút đi như sao băng, rơi vào gần lỗ bóng xa xa.

Chúng ta cùng reo hò khen hay, công chúa sướng rơn, hớn hở chạy qua, một lần nữa dùng tư thế mới rồi vung gậy, động tác nhanh nhẹn tới nỗi ta chẳng kịp nhắc nàng rằng vì bóng cách lỗ rất gần nên lần này căn bản không cần vung gậy, chỉ cần đổi cây gậy khác đẩy vào...

Kết quả, gậy vung ra, quả bóng mã não lại bay vút lên, lướt qua lỗ bóng, phi thẳng ra ngoài sân.

Ta thấy không ổn, nhìn chỗ quả bóng rơi xuống, hẳn là một lối đi cho người qua lại.

Có vẻ như công chúa cũng nhận ra điều ấy, vội chạy về phía đó, ta cũng lập tức đuổi theo kiểm tra. Nàng chạy tới mép sân trước, nơi đó là một gò đất nhỏ, nàng dừng bước, đứng trên sườn gò nhìn xuống lối đi ngoài sân, như nhìn thấy cái gì, đứng yên bất động.

Ta xách gậy bóng rảo bước qua, dừng lại sau lưng nàng, tầm mắt mau chóng đảo xuống, quả nhiên trông thấy một người dường như bị bóng đánh trúng, đang xoa trán ngơ ngác nhìn lên.

Đó là một thiếu niên tuổi chừng mười ba, mười bốn, vóc dáng không cao nhưng rất cường tráng, gương mặt chất phác như trẻ con nhà nông, da hơi ngăm, hai má đỏ bừng, cặp môi hơi dày lúc này đang mở hờ, ngây ngẩn nhìn chằm chằm công chúa một hồi lâu rồi dời mắt sang ta.

Ta tạm thời chưa đoán ra được thân phận của hắn. Dáng vẻ hắn khác hẳn kiểu con cái thế gia như hai công tử họ Tào, nhưng trên người lại bận áo bào vải lĩnh đắt tiền in hoa văn hình đứa bé leo trèo, hơn nữa còn vào cung hôm nay, tựa hồ cũng thuộc ngoại thích.

"Công tử, mới rồi quả bóng kia có làm ngài bị thương không?" Ta hỏi hắn.

Hắn như kiếm chút thì giờ suy nghĩ lời ta, xoa xoa trán thêm mấy cái rồi mới chỉ chỉ mặt đất bên cạnh, lúng túng nói: "Bóng rơi xuống đây rồi bắn lên, đụng vào đầu ta... Không sao, không sao..."

"Bỏ tay xuống cho ta xem," Công chúa mở miệng, giọng hơi mang ý ra lệnh, "Có chảy máu không? »

Thiếu niên kia lắc đầu, ngoan ngoãn bỏ tay xuống, công chúa rướn người xem xét, yên lòng: "Còn may, chỉ hơi đỏ chút thôi."

Thấy ta cũng thở phào, công chúa không kiêng dè chút nào, cười trỏ vào thiếu niên: "Huynh xem hắn có giống một con thỏ ngốc không."

Bấy giờ ta mới để ý thấy trên đầu thiếu niên kia đội một cái mũ trùm bằng vải bông, bên trên dựng thẳng hai cái cánh nom như khăn chít đầu triều thiên, nhưng bởi làm bằng vải nên trông khá là dày rộng nặng nề, quả thật nom có vài phần giống tai thỏ.

Ta không tiếp lời công chúa mà cúi đầu giải thích sơ lược tình hình gõ viên ban nãy với thiếu niên, cũng thay mặt công chúa xin lỗi, song hắn tựa hồ cũng chẳng mấy quan tâm tới nội dung ta nói, trái lại có vẻ rất hứng thú với gậy bóng trong tay ta, nhìn chăm chú hồi lâu.

Ánh mắt ấy chăm chú tới mức làm ta cũng không khỏi cụp mắt xuống nhìn cây gậy. Phần dưới gậy bóng cong thành hình móc câu, nhìn tổng thể khá giống một cái muôi cán dài, trên gậy đính đồ trang trí bằng vàng dọc theo thân, trên chóp điểm một món trang sức bằng ngọc, rất bắt mắt.

Thiếu niên kia lẳng lặng quan sát hai anh em họ Tào và ta mấy lượt, lại nhìn sang công chúa, do dự. Hắn đứng ngay đầu gió lùa, bị gió thổi hồi lâu, không kìm được hắt hơi một cái, bắn ra chút nước mũi xanh xanh, hắn lập tức giơ tay bịt mũi, dùng mu bàn tay lau nước mũi đi.

Công chúa khẽ nhíu mày.

Đúng lúc này, có nội thị hớt hải chạy tới, nói với thiếu niên: "Lý công tử, thì ra cậu ở đây! Lý phu nhân đang tìm cậu khắp nơi, muốn dẫn cậu đi gặp hoàng hậu và Miêu nương tử..."

Thiếu niên "à" một tiếng rồi bị nội thị dẫn đi, hãy còn lưu luyến không thôi, đi một bước lại ngoảnh đầu lại.

Công chúa xoay người, nói với bọn ta: "Đừng để ý tới hắn nữa, chúng ta chơi bóng tiếp đi."

Tào Bình rất có phong độ, hoàn toàn bỏ qua lạc thú vui chơi của mình, một lòng dạy công chúa gõ viên, bởi vậy tâm trạng của công chúa rất tốt, cho đến tận lúc tiệc tối khai màn, còn liên tiếp quay về phía Tào Bình, cười chúm chím.

Nhưng lúc này, vẻ mặt Miêu chiêu dung lại khác hẳn ban ngày, thần sắc ảm đạm, mặc cho trên tiệc ca múa thanh bình, linh đình ăn uống, bà vẫn chẳng mảy may hé một nét cười, một mực cúi đầu, cũng không có lòng dạ nào nhìn đến công tử Tào thị.

Tiệc tan trở lại Nghi Phượng Các, Miêu chiêu dung bảo nội nhân đưa công chúa trở về phòng, bản thân thì bần thần ngồi trong sảnh. Hàn thị thấy sắc mặt bà không bình thường, bèn dè dặt hỏi: "Nương tử vì sao không vui ạ?"

Nghe thấy câu này, nước mắt Miêu chiêu dung lập tức tuôn ra như nước vỡ đê: "Ta còn có thể vui được ư? Quan gia muốn gả công chúa cho nhà tay cậu bán vàng mã!"

Ta đứng bên cạnh nghe thấy cũng sửng sốt khôn tả, hoàn toàn không ngờ kết quả sẽ như vậy.

"Tay cậu bán vàng mã" là chỉ Lý Dụng Hòa, em trai mẹ đẻ kim thượng, Chương Ý hoàng thái hậu Lý thị.

Kim thượng là do Chương Hiến Minh Túc hoàng thái hậu Lưu thị và Chương Huệ hoàng thái hậu Dương thị nuôi nấng, song mẹ đẻ thì lại là thị nữ Lý thị của Lưu thái hậu. Năm đó khi Lưu thái hậu là tần ngự của vua Chân Tông, được sủng ái nhất lục cung song mãi mà chẳng có con. Có lần Chân Tông ngẫu nhiên tới chỗ Lưu thị, thấy Lý thị thanh tú xinh đẹp, nước da trắng nõn, bèn lệnh cho thị tẩm, Lý thị nhờ vậy mang thai, sinh hạ hoàng tử. Lưu thị ôm con Lý thị về nuôi nấng, tuyên bố với bên ngoài là mình sinh, Lý thị cũng chẳng giành giật danh phận, lặng lẽ đứng giữa tần ngự, ngậm miệng giữ kín bí mật này, cho đến khi lâm chung cũng chẳng nhận biết kim thượng.

Lúc Lý thị bệnh tình nguy kịch, Lưu thái hậu đã gợi ý kim thượng phong hiệu làm Thần phi. Năm Lý thị vào cung, em trai Lý Dụng Hòa mới bảy tuổi, về sau trưởng thành sống trong cảnh nghèo khó, lấy nghề in tiền vàng mã làm nghiệp ở kinh sư, đó là một trong những nghề thấp kém bị người đời khinh bỉ. Sau nữa, Lưu thái hậu phái người xuống dân gian tìm ông ta, thưởng cho ông ta một chức quan nhỏ.

Đến tận khi Lưu thái hậu qua đời, Yến vương mới nói cho kim thượng hay chân tướng về mẹ ruột. Kim thượng buồn bã ủ rũ mất mấy ngày không lên triều, trong cơn bi thương tự trách đã truy tôn Lý thị làm hoàng thái hậu, đồng thời ban thưởng hậu hĩnh cho Lý Dụng Hòa, nhờ đó mà ông ta thăng quan tiến tước. Hiện giờ, quan hàm Lý Dụng Hòa đang là Chương Tín tiết độ sứ, đồng bình chương sự (*), tuy chỉ là chức hão, không có thực quyền, song bổng lộc và đãi ngộ nhận được thì không thua tể tướng, đủ để thấy kim thượng đối đãi với Lý thị hậu đến nhường nào, chiếm vị trí bậc nhất trong ngoại thích.

(*) Là chức quan nắm giữ hai tỉnh Trung thư và Môn hạ (trung tâm xử lý chính vụ) trên danh nghĩa, thực tế là do tể tướng quản lý.

Tuy nhiên, sự cao quý của ngự tứ vẫn chẳng hề thăng cấp cho địa vị của Lý quốc cữu trong lòng cung nhân. Rất nhiều người khi bàn riêng về ông ta vẫn sẽ gọi ông là kẻ bán vàng mã, mỗi lần nói đến chuyện ông "đột nhiên phú quý" đều dùng giọng khinh bỉ. Ông và phu nhân vào cung thường có một vài lời nói cử chỉ không phù hợp, rất hay bị cung nhân chê trách.

"Hôm nay quan gia lệnh Lý quốc cữu và phu nhân mang nhị công tử nhà ông ta tới, dẫn vào trong mành gặp hoàng hậu và ta." Miêu chiêu dung vừa lau nước mắt vừa bực bội nói với Hàn thị, "Thằng bé đó mười ba tuổi, trông ngớ nga ngớ ngẩn. Hoàng hậu hỏi nó hiện giờ đang đọc sách gì, nó đáp 'Thiên tự văn' trước, ngẫm nghĩ một lát rồi lại bảo đang xem 'Hiếu kinh'. Nói năng chậm rì rì, quan gia nghe xong lại yêu thích, còn khen nó 'ứng đối ung dung', hết ban tọa cho nó lại thưởng nó đồ ăn, nó quỳ xuống bái tạ, quan gia lại khen nó hiểu chuyện, bảo nó 'cử chỉ đáng xem'. Ta thấy trên trán nó sưng đỏ một vết, hỏi xảy ra chuyện gì, nó nói là lúc tản bộ trong Hậu uyển đâm phải cây hòe..."

Hàn thị nghe xong ngạc nhiên thốt: "Đi đường cũng đâm vào cây được? Thằng bé này thật đúng là ngốc nghếch."

Miêu chiêu dung càng thêm ấm ức, kể tiếp: "Quan gia bảo nó lui đi rồi hỏi ta thấy Lý Vĩ thế nào, ta nghĩ, thằng bé nó ngây ngô như vậy mà còn lớn được đến tuổi này cũng chẳng dễ dàng, nên nói vài lời tốt đẹp thì hơn, bèn cười với quan gia khen nó mấy câu, nào ngờ quan lại mừng rỡ nói: 'Nàng cũng thích nó à. Vậy thì vừa khéo, ta đang định chọn nó làm phò mã, gả Huy Nhu cho nó đây.'"

Hàn thị lắc đầu thở dài: "Trời ạ, quan gia ngàn chọn vạn chọn, cuối cùng lại đi chọn người gia thế người ngợm như thế... Hoàng hậu cũng có ý này?"

Miêu chiêu dung đáp: "Ban đầu ta còn tưởng là quan gia nói đùa, hỏi đi hỏi lại ngài, ngài lại nghiêm nghị xác thực có ý đó. Khoảnh khắc ấy, đến hoàng hậu cũng phải ngẩn người. Ta nghĩ chị ấy cũng không quá bằng lòng, nhưng xem quan gia nghiêm túc thế, ai dám hó hé thêm câu nào nữa?" Thoáng dừng lại, chiêu dung lại bắt đầu nghẹn ngào, "Ta nghe chuyện này mà trong lòng bức bối quá thể, trên tiệc lại hết lần này tới lần khác nghe thấy tiếng phu nhân Lý quốc cữu khoác lác ba hoa, hớn ha hớn hở khoe với Tào phu nhân nhà mẹ đẻ mình năm nay làm ăn kiếm được bao nhiêu tiền. Tào phu nhân hàm dưỡng tốt nên chỉ mỉm cười. Cơ mà, trời ơi là trời, cứ nghĩ tới phu nhân quốc cữu là bà thông gia tương lai của ta, ta thực sự chỉ muốn đập đầu đầu tự tử ngay trên điện cho rồi!"

Hàn thị cũng thở vắn than dài, rơi lệ cùng Miêu chiêu dung, lát sau, lại tràn ngập hi vọng nói: "Có lẽ quan gia chỉ nhất thời nổi hứng nói vậy thôi, đợi mấy ngày tới khôi phục lại tinh thần sẽ không nhắc lại chuyện này nữa."

Có thể, qua mấy ngày nữa sẽ không ai nhắc lại chuyện này. Ta cũng hi vọng như vậy.

Lý Vĩ tuyệt đối không xứng đôi với công chúa. Ta có kết luận này không phải là vì xem thường dòng dõi Lý thị. Qua lời Miêu chiêu dung, có thể đoán được Lý Vĩ là cậu thiếu niên bị bóng mã não của công chúa đánh trúng kia, họ không thích hợp, sớm đã biểu hiện ở cái chau mày thoáng qua của công chúa. Bởi vậy nên, hiện giờ chỉ có thể hi vọng đây chẳng qua là câu bông lơn nhất thời của kim thượng.

Thế nhưng, ngày bính tử (*) tháng Năm năm ấy, cái bọn ta đợi được lại là ý chỉ của kim thượng: phong đông đầu cung phụng quan Lý Vĩ làm tả vệ tướng quân, phò mã đô úy, kén làm rể hiền cho Phúc Khang công chúa.

(*) Bính là một can trong can chi, đứng thứ mười ba nên ngày bính tử là ngày mười ba trong tháng.

Phản ứng của cung nhân đúng như dự liệu.

"Bọn họ cười thầm nói, sau này trong hậu cung mà làm lễ cúng thì khỏi cần phải sai người đi mua vàng mã nữa rồi, nhà Lý phò mã khắc sẽ cung ứng." Có lần Miêu chiêu dung khóc lóc kể với kim thượng, "Thiếp không nghĩ ra nổi vì sao quan gia lại chọn cậu con rể này, trong khi đại công tử nhà Tà lang tài mạo song toàn, tuổi tác lại tương xứng với công chúa..."

Khi đó kim thượng tự bày một ván cờ, đương ngồi một mình xem xét, nghe Miêu chiêu dung nói vậy, ngài dùng hai ngón tay kẹp một quân cờ lên, chầm chậm hạ xuống bàn cờ.

"Nàng nhất định muốn ngoại thích trong thiên hạ đều phải mang họ Tào à?" Ngài dửng dưng buông lời.


6. Điền từ

Trước đây, mỗi lần kim thượng trực tiếp tuyên bố ý chỉ gì mà không qua thương nghị cùng chư thần, thế nào cũng sẽ có người phản đối. Chúng thần thường sẽ chia ra làm hai phái, một phái tán thành, một phái phản đối. Cũng có tình huống khác – hai phái cùng phản đối. Tuy nhiên, trong vấn đề chọn phò mã này, thái độ của chư thần lại bất ngờ nhất trí chưa từng có, hầu như tất cả mọi người đều dứt khoát tỏ vẻ bệ hạ anh minh, đã ra quyết định chính xác nhất. Đám gián thần trước kia quen thói dâng sớ chỉ trích kim thượng bước đi sai lầm cũng nhao nhao viết tấu ca ngợi, nói bệ hạ chọn Lý Vĩ kết duyên cùng công chúa, tôn vinh nhà cậu, là đền đáp công ơn dưỡng dục của hoàng thái hậu, "Thiên hạ nghe thấy, không ai là không thương cảm, bảo nhau phải biết làm tròn chữ hiếu". Bởi vậy mà thái độ của kim thượng đối với mối hôn sự này càng thêm kiên định, không cho hậu cung xía vào, nhưng, có lẽ là để trấn an chiêu dung, ngài nâng bà lên làm vị thục nghi chính nhị phẩm thứ ba, không bao lâu sau, còn thăng chị em tốt Du tiệp dư của bà lên làm sung nghi.

Công chúa đương nhiên đã biết phụ thân đã chọn xong phò mã cho mình, nhưng trước mặt nàng, mọi người sẽ không nói đến khuyết điểm của Lý Vĩ, ta cũng không cho nàng hay Lý Vĩ chính là "con thỏ ngốc" nàng gặp ngày ấy. Hơn nữa, bấy giờ nàng còn chưa hiểu rõ lắm khái niệm hôn nhân, tựa hồ cảm thấy phò mã chỉ là người quản lý sự vụ trong dinh thự ngoài cung của nàng về sau. Thế nên, "Tỷ tỷ, lúc con ra ngoài, người có thể xuất cung sống cùng con không?" Nàng hỏi mẫu thân, đây là vấn đề nàng quan tâm nhất.

Miêu thục nghi buồn rầu nói: "Không được. Tỷ tỷ là nương tử của cha con, không thể ra sống ngoài cung." Thấy công chúa thất vọng hết sức, bà lại mỉm cười ôm công chúa vào lòng, an ủi: "Cơ mà, vú nuôi và bọn Gia Khánh Tử, Tiếu Diệp Nhi của con đều có thể theo con ra ngoài, cuộc sống của con sẽ không có thay đổi gì quá lớn."

"Hoài Cát cũng có thể đi theo con chứ ạ?" Công chúa hỏi.

Miêu thục nghi sửng sốt, nhưng ngay sau đó lại cười: "Ừ, đương nhiên, Hoài Cát đương nhiên là có thể theo con rồi."

Công chúa yên lòng hí hửng, tựa vào lòng mẫu thân ngẫm nghĩ chốc lát, hỏi tiếp: "Thế con còn được ở lại bên tỷ tỷ bao lâu ạ?"

Miêu thục nghi cũng không biết chắc câu trả lời cho câu hỏi này: "Cái này phải xem ý cha con thế nào... Đợi đến khi con lớn lên đã."

Công chúa lại hỏi: "Bao tuổi thì được coi là lớn ạ?"

Miêu thục nghi đáp: "Chừng mười lăm, mười sáu."

"Vậy đến năm con mười lăm mười sáu nhất định phải ra ngoài ngay ạ?"

"Không nhất định, nếu cha con bằng lòng giữ con thì có thể ở lại thêm một khoảng thời gian nữa." Miêu thục nghi vuốt ve hai má con gái, thở dài: "Nhưng mà muộn nhất không thể quá hai mươi... Qua hai mươi là bỏ lỡ hôn kỳ, thành gái lỡ thì rồi."

"Hai mươi..." Công chúa tính số thời gian mình còn có thể ở lại bên mẫu thân, kết luận làm nàng hài lòng nở nụ cười: "Vậy còn mười năm nữa, dài lắm, từng ấy thời gian cũng đủ để con sống lại thêm lần nữa kia mà."

Thời gian lâu dần, ít nhiều cũng có vài lời đàm tiếu về phò mã truyền vào tai nàng, thỉnh thoảng, nàng cũng hơi sầu lo.

"Nghe nói dung mạo Lý Vĩ không đẹp, còn rất ngốc nữa." Nàng nói với ta. Nhắc đến phò mã đô úy phụ thân chọn cho mình, nàng vẫn luôn gọi thẳng tên không chút kiêng kỵ, "Mười ba tuổi rồi mà vẫn còn đang học 'Thiên tự văn', ngốc chết đi được!"

Ta hi vọng nàng nghĩ tích cực hơn: "Phò mã bây giờ chắc chắn đã học sang rất nhiều sách vở khác nữa rồi."

Nàng tỏ vẻ tương lai không dung chứa lạc quan: "Cứ coi như hắn đã hì hục thuộc xong 'Thiên tự văn' rồi đi, hãy còn cả đống kinh thư Khổng Mạnh đang chờ hắn gặm đấy. Đầu óc hắn như thế, nói sao cũng phải học mất hai, ba mươi năm!"

Lật giở mấy quyển văn chương thi tập ta tìm về cho nàng xem, lướt mắt qua những câu tuyệt cú của các đại danh sĩ đương triều Án Thù, Phạm Trọng Yêm, Âu Dương Tu, Tô Thuấn Khâm, Mai Nghiêu Thần trong sách, nàng thở dài rất ư phiền muộn: "Chỉ tính kinh thư thôi đã đủ làm hắn chật vật rồi, khẳng định là chẳng có thời gian mà học đến thi phú... Chắc chắn là không thể ngâm thơ điền từ với ta được rồi."

Ta không khỏi bật cười. Nàng nói câu cuối vô cùng nghiêm túc mà vào tai ta thì quả tình là rất khôi hài.

Nàng biết nguyên nhân ta cười, trừng ta: "Huynh cười ta không biết ngâm thơ điền từ đúng không?"

"Nào có," Ta đáp trái lương tâm, "Công chúa thi từ song tuyệt."

Đoán chừng vẻ mặt ta không được thành khẩn cho lắm, nàng quyết tâm tỷ thí với ta: "Huynh ra đề cho ta đi, ta làm ngay bây giờ cho huynh xem."

Ta thấy nàng hứng thú dạt dào, cũng bèn tuân mệnh, chọn một tên điệu đơn giản cho nàng: "Vậy mời công chúa viết một bài 'Ức Giang Nam' nhé (*). Không cần phải viết cả bài, thần làm câu đầu tiên, công chúa đối tiếp hai, ba câu là được."

(*) Tên điệu là tên quy cách của từ, quy cách từ khác với luật thơ, thơ có bốn kiểu quy cách mà từ thì có tổng cộng hơn một ngàn kiểu (gọi là từ phổ), để cho dễ nhớ, người ta đặt tên cho những quy cách này, thường là theo bài từ kinh điển đại diện cho kiểu quy cách; "Ức Giang Nam" là "Nhớ Giang Nam", lấy tên theo . Các bản dịch thi từ trong truyện sẽ không hoàn toàn đúng luật bằng trắc, xin hãy thông cảm cho con dịch giả ngôn ngữ nghèo nàn, thơ thẩn không tinh này.

Nàng gật đầu bằng lòng. Ta thấy nàng lúc này đang mặc một chiếc áo đơn bằng la nhẹ màu hồng, bèn tùy ý ngẩng đầu xướng: "Áo đơn mỏng... Câu tiếp theo công chúa có thể tự chọn vần chân (*)."

(*) Vân chân là vần ở cuối câu thơ.

"Áo đơn mỏng..." Nàng rì rầm nhắc lại, sau đó bấm ngón tay đếm đếm gì đó, lúc lúc lại nhìn lên trên, miệng lẩm bẩm.

Ta trông mà lấy làm lạ, bèn hỏi nàng: "Công chúa đang đếm gì đấy?"

"Đừng quấy rầy!" Công chúa bất mãn ta cắt đứt mạch suy nghĩ của mình, "Ta đang kiểm tra bằng trắc câu dưới."

Thời gian chờ đợi rất dài, ta nhàn đến không biết làm gì khác, chỉ đành ngồi xuống, bắt đầu nấu nước châm trà.

"Có rồi!" Lúc nước trong ấm bạc nổi chuỗi bong bóng mắt cá đầu tiên, nàng rốt cuộc cũng nghĩ ra một câu: "Tay áo ôm chăn lạnh... Áo đơn mỏng, tay áo ôm chăn lạnh... Thế nào?"

Ấm bạc rung lên, tiếng nghe như mưa gió thoảng qua. Ta vừa nhấc ấm ra để nướng chén, làm nóng chén trà, vừa trả lời đúng sự thật: "Chỉ là niêm luật không tệ mà thôi."

"Chỉ không tệ mà thôi?" Ánh mắt nàng tối xuống. Ngẫm nghĩ đôi chốc, vẫn khăng khăng đòi ta phải khen nàng, "Huynh thường nói với ta làm thi từ phải phát ra từ cảm xúc, ta phát ra từ cảm xúc thật mà. Hai câu này là ta chỉ buổi đêm lạnh lẽo lần trước hai ta trò chuyện dưới mái hiên, ta chỉ mặc áo trong, lạnh đến ôm chăn..."

Ta bỏ vụn trà xay vào trong chén, nghe nàng nhắc tới chuyện cũ, trong lòng rung động, động tác thoáng khựng lại, ngữ điệu nói với nàng mềm dịu hơn đôi chút: "Được rồi, câu này rất hay."

Nàng cười hí hửng: "Câu tiếp theo ta cũng nghĩ xong rồi... Gác ngọc cột gió thơm quyến luyến. Huynh đối tiếp câu này đi."

Ta rót nước nóng vào chén, đặt ấm lại lò đun trà rồi ước lượng vừa đủ lượng trà vụn, trong lúc đó nhớ đến mảnh trăng thượng huyền, nghĩ ra một câu: "Trăng bạc vờn sương bóng nao nao."

Dứt lời, kiến nghị công chúa: "Câu cuối cùng chỉ có năm chữ, công chúa đối đi."

Nàng cũng ưng thuận, cụp mi trầm ngâm. Rất nhanh sau đó, hơi nước bốc lên từ ấm đun, chuỗi bong bóng mắt cá bắn tung tóe, chính lúc này, nàng một lần nữa mở to mắt nhìn ta chằm chằm, tủm tỉm cười muốn mở miệng.

Ta nhanh chóng dậy lên cảm giác hoài nghi sâu sắc với câu nàng sắp đối, chặn lời nàng nói trước: "Công chúa nghĩ ra thật rồi à? Câu cuối mặc dù ngắn nhưng lại là nét bút vẽ rồng điểm mắt của 'Ức Giang Nam', nhất định phải lời ít ý đủ mới được."

Nàng gật đầu lia lịa: "Đủ mà, đủ lắm luôn. Câu này của ta hoàn toàn có thể khái quát trọn tinh hoa đêm đó. So với câu này thì mấy câu trước chỉ toàn là nói nhảm."

Ta nhấc ấm cầm lấy chổi đánh, chuẩn bị rót nước đánh tan vụn trà, nghe nàng nói thế bèn thuận miệng đáp: "Nếu đã vậy, thần xin dỏng tai lắng nghe."

"Gác ngọc cột gió thơm quyến luyến, trăng bạc vờn sương bóng nao nao..." Thoạt tiên nàng lặp lại hai câu trước lấy ngữ cảm, tiếp đó dương dương đắc ý công bố nét bút vẽ rồng điểm mắt sau cùng của mình: "Dưới hiên khoai sọ tròn!"

Tay run lên, nước rót từ ấm vãi ra đôi giọt, ta buồn cười, dứt khoát buông trà cụ, phá ra cười.

Thấy ta phản ứng vậy, nàng dẩu miệng nhíu mày vẻ giận dỗi, đập bàn mắng: "To gan! Huynh dám cười nhạo công chúa? Hôm đó ta nhớ nhất là khoai sọ, viết vào từ có gì không đúng!"

Ta cười hồi lâu rồi mới miễn cưỡng nín xuống, đứng lên khom lưng xá công chúa, làm bộ nghiêm túc, nói: "Thần không dám cười nhạo công chúa, chẳng qua là cảm thấy khoai sọ không được tròn cho lắm thôi ạ."

"Không phải là để gieo vần sao..." Nàng giải thích, hãy còn đang cần mẫn suy nghĩ, "Hay là ta đổi chữ khác... Còn chữ nào phối được với khoai sọ nhỉ?" Nàng nhìn ta, cẩn thận thăm dò, "Ngọt? ... Mặn? ... Chua?"

Cưỡng ép mình kiềm chế ý cười chỉ chực trào lên, ta nghiêm trang đáp: "Bẩm công chúa, nếu khoai sọ tròn và khoai sọ chua không thể gộp chung thì thần thà bỏ khoai sọ chua lấy khoai sọ tròn còn hơn."

Công chúa mừng rơn: "Ta đã bảo rồi mà, hạ bút thành văn là tốt nhất."

Tuy rằng cơ hồ muốn bất tỉnh, song ta vẫn gắng hết sức cầm cự, cúi người nói với nàng: "Thần còn một chuyện nữa muốn khởi bẩm, mong công chúa chuẩn tấu."

Nàng rất chi là hào phóng vung tay: "Nói đi."

"Thần...muốn cười..." Ba chữ vừa bật ra, ta đã ngồi sụp xuống, dựa bàn cười sằng sặc.

Nàng như phát cáu, nhào tới đánh ta, nhưng chỉ đập mấy cái không nhẹ không nặng rồi chính mình cũng không nhịn được phì cười, kéo ống tay áo ta che mặt, cười khúc khích không ngừng.

Mỗi ngày đều nhìn nàng nói cười rạng ngời như thế, chỉ cảm giác thời gian bịn rịn, năm tháng tươi đẹp, cuộc sống không biết buồn lo này như có thể kéo dài đến vô tận. Đôi lúc ta cũng sẽ nghĩ tới chuyện nàng đã lập hôn ước, nghĩ tới ngày nàng xuất giá có khả năng sẽ là điểm kết cho cuộc sống tốt đẹp này, nhưng khi ấy ta cũng như nàng, cảm thấy mười năm dài đằng đãng, dài như thể ngày đó sẽ không bao giờ đến.


7. Phi bạch

Kể từ khi công chúa đính hôn, mỗi dịp lễ tết, ngoài lệ thưởng trong cung ra, Miêu thục nghi và nhà Lý quốc cữu còn muốn tặng quà qua lại lẫn nhau. Cuối năm Khánh Lịch thứ bảy, Miêu thục nghi thấy ta đã lớn, lại là người cung phụng bên công chúa, bèn giao nhiệm vụ đưa quà đến nhà phò mã vào mồng một Tết cho ta.

Tuy đã có duyên gặp mặt một lần, song phò mã Lý Vĩ thấy ta cũng không nói năng gì nhiều, vẫn rất im lặng. Quốc cữu không khỏe, nghỉ ngơi trong nhà, nhưng quốc cữu phu nhân Dương thị thì lại khá nhiệt tình, sai người rót trà cho ta, bản thân thì ngồi xuống đối diện ta hỏi ngắn han dài, sau khi quan sát ta hồi lâu, lại cười nói: "Lương cao ban thật đúng là nhân tài, nếu không nói ra, ai mà nhìn ra được là một tiểu hoàng môn chứ?"

Ta dở khóc dở cười, chỉ có thể coi như bà đang khen mình, nán lại đôi chốc rồi đứng dậy cáo từ, vội vã rời khỏi phủ họ Lý.

Thấy sắc trời còn sớm, ta bèn dò theo địa chỉ hỏi được lần trước của Thôi Bạch, đi tìm. Vốn không trông mong có thể tìm được gã, định bụng ghi nhớ vị trí nơi ở của gã rồi sau này có cơ hội thì quay lại sau, chẳng ngờ vừa mới tới trước cổng, cổng đã đột ngột mở ra từ bên trong, một người sải bước đi ra, áo bào rộng tay áo dài, đầu chít khăn, chính là Thôi Bạch.

Chúng ta bất ngờ gặp lại, đều mừng vui khôn xiết. Gã vội mời ta vào, hai bên hàn huyên mấy câu, rồi gã lại lấy tác phẩm vẽ gần đây ra, trải từng bức cho ta xem, nói: "Mấy năm nay gửi gắm tình cảm vào non nước, cũng có điều tâm đắc, nếu không phải tiêu hết lộ phí thì chỉ e lúc này còn chưa về nhà."

Ta nghĩ đến chuyện Thu Hòa, lo rằng Thôi Bạch đã có gia đình, bèn cố ý hỏi thăm: "Tử Tây du ngoạn thiên hạ, chị dâu một mình ở lại trông nhà hay đi cùng huynh?"

Thôi Bạch cười to: "Nhà tôi làm gì có chị dâu nào, chỉ có một trúc phu nhân thôi!"

Ta nghe vậy cúi đầu cười. Trúc phu nhân là dụng cụ giường chiếu mùa hè, lấy trúc xanh tước nhỏ hoặc cả đoạn trúc làm thành, thường có hình trụ tròn, dùng để ôm ngủ lấy mát. Thôi Bạch nói vậy chứng tỏ chưa thành gia.

"Tôi đã sớm có ý định đi khắp thiên hạ, thời gian mấy năm nay đều tiêu tốn hết trên đường, mãi gần đây mới quay về nên đến nay vẫn chưa lấy vợ." Ngay sau đó, Thôi Bạch giải thích.

Ta lại hỏi gã đã có hôn ước chưa, gã nói chưa, ta lập tức yên lòng, đề cập tới Thu Hòa, hỏi gã trước đây tặng Thu phố dung tân đồ cho Thu Hòa có phải là có ý với cô.

Thôi Bạch cũng thản nhiên thừa nhận: "Trước kia tặng em bức họa ấy thật sự là để tỏ ý mến thương. Nhưng về sau nghĩ lại, lại cảm thấy hành động này thật lỗ mãng. Tôi chỉ là hạng áo vải quần đay, chẳng có gia thế dòng dõi quyền cao lộc hậu gì tương xứng, em lại thân tại thâm cung, vốn không dám mong mỏi kết duyên kiếp này, chỉ mong em không vì ý "trao nhạn" mà cảm thấy tôi mạo phạm, để bức tranh kia được làm bạn bên em, đối với tôi đã đủ mãn nguyện rồi."

Ta thuật lại chi tiết cho gã nghe chuyện Thu Hòa được đế hậu sủng ái, lấy được một lời chấp thuận của kim thượng rồi hỏi Thôi Bạch có muốn lấy cô làm vợ không, Thôi Bạch mừng rỡ không thôi, "Nếu Đổng cô nương không chê tôi khuyết thiếu công danh, nhà tranh thanh bần thì sau khi em xuất cung, tôi nhất định sẽ tam môi lục sính đón em vào cửa."

Ta mỉm cười nói Thu Hòa không hề xét nét vật ngoại thân, Thôi Bạch càng thêm hoan hỉ, lấy bút mực ra, lập tức thảo thiếp ướm lời chuẩn bị trước khi ăn hỏi cưới vợ, viết tên húy ba đời và ngày sinh tháng đẻ của mình vào, ủy thác ta chuyển cho Thu Hòa.

Trở lại cung, ta nhanh chóng đi tìm Thu Hòa, chuyển cáo câu trả lời của Thôi Bạch, đưa thiếp ướm lời cho cô. Thu Hòa cười rạng rỡ, liên thanh cảm ơn, lại chợt lo lắng: "Nhưng mà, cứ đột ngột nói với quan gia tôi muốn xuất cung như vậy, ngài sẽ bằng lòng sao?"

Ta nghĩ ngợi, kiến nghị cô nói với hoàng hậu trước: "Cô hầu hạ bên hoàng hậu đã lâu, bà cũng rất thích cô, nhất định sẽ suy nghĩ cho cô. Cô hãy thương lượng với bà, xin bà nói với quan gia."

Thu Hòa làm theo. Hai hôm sau, cô tới tìm ta, bước chân khoan khoái, thần thái sáng láng, hiển nhiên sự tình tiến triển rất thuận lợi.

"Tôi thử thăm dò nói với hoàng hậu rằng tôi muốn xuất cung," Cô đỏ mặt nói với ta, "Bà vô cùng kinh ngạc, nói tôi còn quá nhỏ tuổi, có phải trong nhà xảy ra chuyện gì nên mới vội vã trở về không. Tôi đáp không phải, sau đó bà lập tức đoán ra, bình lui mọi người, hỏi tôi có phải là...có ý trung nhân..."

"Cô thừa nhận?" Ta hỏi cô, nếu chẳng phải thấy tâm trạng cô hiện giờ rất tốt thì hẳn đã lo lắng hậu quả thay cô rồi. Không cần nghe cô trả lời đã suy ra được, cô chưa từng biết nói dối, sớm muộn gì cũng thừa nhận.

Thu Hòa thỏ thẻ: "Tôi chỉ cúi đầu thôi, xấu hổ đến độ hận không thể chui xuống đất. Hoàng hậu an ủi tôi, nói không sao, có chuyện gì thì nói cho bà biết, bà sẽ gắng hết sức giúp tôi. Tôi bèn đứt quãng nói chút ít, thì ra bà cũng biết Thôi Bạch, vừa nghe đến đã cả cười, nói: 'Ấy quả thật người tài hoa, kể cũng xứng đôi với ngươi'."

Đáy lòng ta vẫn có phần thấp thỏm: "Biết cô có qua lại với Tử Tây, hoàng hậu có nói gì thêm không?"

Thu Hòa lắc đầu, kể tiếp: "Sau nữa, bà im lặng một lúc lâu, chẳng biết là nghĩ gì. Tiếp đó, lúc nhìn tới tôi lần nữa thì mỉm cười, nói: 'Thế gian hiếm có nhất là vừa trong lòng có nhau vừa tâm không khúc mắc. Ngươi là đứa bé ngoan, ta sẽ thành toàn cho ngươi.'"

Nghe xong, ta thở phào nhẹ nhõm thay cô: "Đã nói thế thì có nghĩa bà đồng ý cho cô xuất cung rồi?"

"Đồng ý, chỉ là không phải bây giờ." Thu Hòa nói, "Hoàng hậu bảo vì tôi còn chưa đến tuổi cung nữ xuất cung, trong nhà lại không có đại sự gì, nếu bây giờ chỉ cho mỗi mình tôi xuất cung sẽ là phá quy định, trong cung tất có lời đồn đãi. Không bằng đợi đến tiết Càn Nguyên (*) sang năm, quan gia vốn định cho một nhóm cung nhân nữa xuất cung nhân dịp ấy, bà sẽ giải thích rõ với quan gia trước đó, nhắc lại với ngài lời chấp thuận khi xưa, xin ngài xếp tên tôi vào danh sách những người rời cung."

(*) Tiết Càn Nguyên chỉ sinh nhật của hoàng đế đương triều, không cố định.

Tiết Càn Nguyên tức ngày mười bốn tháng Tư, sinh nhật của kim thượng, cách thời điểm hiện tại không đến năm tháng. Năm nay đã sắp qua hết, hơn nữa ngày này hẳn là không có gì đáng lo ngại. Ta chúc mừng Thu Hòa, cảm thấy hôn sự của cô đã đâu vào đấy, ta cũng nhẹ nhõm sung sướng như vơi bớt nỗi lòng, điều cần làm bây giờ chỉ là thừa dịp đưa quà tết Nguyên Tiêu đến nhà phò mã truyền tin cho Thôi Bạch thôi.

"Hoài Cát, ngoài cung trông như thế nào?" Thu Hòa bỗng ngậm cười hỏi ta, lại nói: "Năm bốn tuổi tôi đã vào cung, ngoài những lúc rời cung đi tới mấy lâm viên, xem được vài cảnh tường đỏ cây xanh sau mành che xe liễn ra, tôi hoàn toàn không biết thành thị hiệu buôn Đông Kinh rốt cuộc trông như thế nào."

Ta nhất thời không biết nên bắt đầu kể từ đâu, cũng không muốn nói cô biết chuyến ra ngoài cung của ta trước đó kỳ thực chẳng khác nào mộng du. Những cảnh phố phường dân tục, nhân gian phồn hoa ấy tựa một cuộn tranh trường thiên, ta nhìn trong mắt mà cảm giác linh hồn mình du đãng bên ngoài như không cách nào dung nhập được vào đó nữa.

"Xuất cung rồi cô tự đi xem là được mà." Cuối cùng, ta trả lời như vậy, "Sau này có Tử Tây ở bên cô, cô muốn đi đâu cũng chẳng khó khăn."

Tết Nguyên Tiêu mười lăm tháng Giêng hằng năm, buổi tối ở Đông Kinh luôn đặc biệt náo nhiệt, vua Thái Tông từng hạ chiếu đốt đèn năm đêm trước sau lễ tết, đến giờ, thời gian đốt đèn đã vượt xa năm đêm, từ đầu tháng Giêng, chợ đèn hoa ngoài Đông Hoa Môn đã bắt đầu chuẩn bị, đèn hoa lớn nhỏ đạt đến mấy trăm loại.

Cảnh tượng tráng lệ nhất chợ đèn hoa là ở trước Tuyên Đức Lâu, nơi đó sẽ xếp núi đèn màu cỡ lớn, thân núi trang hoàng bằng tranh chuyện thần tiên, tạo rối gỗ hình thần tiên, thần thú, ngón tay có thể bắn ra năm tia nước, cánh tay cũng có thể cử động, lúc thắp sáng đèn màu, sắc vàng xanh hai mé trái phải sẽ chiếu rọi lẫn nhau, sáng rực lộng lẫy, quang cảnh lung linh. Hai bên tả hữu cửa thành mỗi bên sẽ buộc cỏ thành hình rồng, lấy bạt xanh lồng vào, bên trong xếp dày mấy vạn ngọn đèn, uốn lượn theo thân rồng, lúc ánh đèn giao nhau trông như cặp rồng cùng bay. Đèn rồng khổng lồ và các loại đèn hoa khác nhiều không đêm xuể, du khách ngựa xe như nước, chẳng thể ngơi chân.

Hôm Nguyên Tiêu, kim thượng dẫn cung quyến ngự giá Tuyên Đức Lâu xem đèn, trong cung bày nến phượng đèn rồng, sáng lòa như tranh, kỳ vĩ muôn vẻ, tưởng chừng như ánh đèn ngoài cung lan đến tận đây.

Khánh Lịch năm thứ tám là năm nhuận, nhuận tháng Giêng. Lúc xem đèn tháng Giêng, kim thượng rất hứng khởi, muốn chăng đèn trong cung vào mười lăm tháng Giêng nhuận, tái hiện thịnh cảnh Nguyên Tiêu, bèn nhắc đến với chúng cung quyến trong một buổi tiệc rượu đầu tháng.

Trương mỹ nhân là người khen hay trước tiên, các nương tử cũng biểu hiện tán thành, đến công chúa cũng vỗ tay cười nói: "Được ạ được ạ, đèn hoa tháng trước con còn xem chưa đủ!"

Hoàng hậu lại nghiêm nghị đứng dậy, xá kim thượng rồi nói: "Nguyên Tiêu vốn là ngày lễ mỗi năm một lần, vốn không cần ăn mừng đến hai lần trong một năm, hơn nữa mỗi lần chăng đèn, chi phí đều rất lớn, làm một lần nữa quả thật là quá phô trương. Bệ hạ thường dạy bọn thần thiếp chi tiêu chớ nên hoang phí, nếu chuyện chăng đèn truyền ra ngoài cung, trên làm dưới theo, hao tài tốn của, há chẳng phải đi ngược lại thánh ý của bệ hạ? Vậy nên thần thiếp cả gan kính xin bệ hạ thu hồi mệnh lệnh đã ban ra."

Nụ cười của kim thượng tức thì như bị mấy lời ít ỏi của hoàng hậu đông lạnh, thần sắc có phần cứng đờ, trầm mặc hồi lâu mới mỉm cười lần nữa, hai tay đỡ hoàng hậu lên, nói: "Đa tạ hoàng hậu thẳng thắn can gián. Ý nghĩ này của trẫm quả thực thiếu cân nhắc, việc chăng đèn đừng nhắc lại nữa."

Đến ngày mười lăm tháng Giêng nhuận, trong cung quả nhiên không đặc biệt ăn mừng vui chơi gì, kim thượng chỉ cho vời hoàng hậu, công chúa và vài vị tần ngự thân cận vào Phúc Ninh Điện, bình phẩm tập phi bạch do đãi chiếu Thư viện Lý Đường Khanh soạn.

Phi bạch là một trong tám thể thư pháp, do nhà thư pháp Thái Ung sáng tạo nên, là sở trường của cha con Vương Hi Chi và Tiêu Tử Vân, rất thịnh hành trong triều đại này, đường nét bút họa dẹt, ở giữa xen lẫn những tia trắng bạc, như mái tóc hoa tiêu, thế bút bay bổng. Muốn viết thể phi bạch phải dùng bút khô mực, trong quá trình viết cần khống chế nghiêm ngặt lực độ, mực phân bố quá thưa hoặc quá dày đều là hỏng, mà trong bút họa, nét chấm là khó thực hiện nhất.

Công chúa trố mắt: "Thì ra chữ phi bạch có thể có nhiều cách viết như vậy! Nét chấm trong phi bạch mô phỏng hình dáng vật, ba trăm nét chấm y viết ở đây có thể nói là bao hàm hết đủ kiểu hình vật rồi."

Kim thượng mỉm cười không nói, lệnh lấy bút mực, lập tức nhấc bút tự tay viết một chữ "Thanh (清)", vẫn là thể phi bạch, rắn rỏi hồn hậu, ba nét chấm trong đó lại nằm ngoài ba trăm nét của Lý Đường Khanh, người đứng xem không khỏi trầm trồ

Viết xong chữ này, kim thượng chưa đặt bút xuống ngay mà hai ngón kép bút, đưa cho hoàng hậu, trong mắt ẩn chứa ý mời.

Hoàng hậu vui lòng nhận lấy, nhúng mực đề bút, viết một chữ "Tịnh (净)" phía sau chữ "Thanh", nét mảnh thế hùng, hai nét chấm lại có sự khác biệt.

Mọi người thán phục, nhất tề khen hay, kim thượng lại không lên tiếng, mỉm cười đi ra sau hoàng hậu, hơi cúi người, tay phải nắm lấy tay cầm bút của hoàng hậu, dẫn bà đưa cổ tay, gò má hai người giữa chừng khe khẽ chạm nhau, đợi đến lúc người đứng xem lấy lại tinh thần, giữa hai nét chấm của chữ "Tịnh" trên giấy đã thêm một chấm nữa.

Nét chấm này tư thế chao liệng, vượt lên hẳn năm nét chấm trước đó.

Chấm xong nét bút này, kim thượng chưa buông tay ra ngay, nắm chặt lấy tay hoàng hậu, nghiêng đầu dịu dàng nhìn bà. Hoàng hậu cũng quay về phía ngài, vợ chồng nhìn nhau cười.

Ta chưa bao giờ thấy kim thượng có thần sắc như khi chăm chú nhìn hoàng hậu giờ khắc này. Trong ấn tượng của ta, ngài cũng chưa từng dùng ánh mắt đó nhìn những tần ngự như Miêu thục nghi. Hai chữ "dịu dàng" thực ra hoàn toàn không đủ để hình dung trạng thái ấy, ngài và hoàng hậu nhìn nhau, ánh mắt trong vắt, đáy mắt sáng rực, dường như đôi bên có thể dò đường vào tận đáy lòng nhau, nụ cười kia lại ăn ý đến thế, tựa hồ bao nhiêu thâm ý đều chẳng nằm trong lời.

Ngay sau đó nhớ tới lời công chúa nói về hoàng hậu buổi chuyện đêm năm trước, ta không khỏi nghĩ, kỳ thực hoàng hậu chưa chắc đã "nghèo" như vậy.

Song ngay sau đó nghĩ đến việc trước đó kim thượng nạp Phạm cô nương, cùng với lời ngài phản vấn Miêu nương tử "Nàng nhất định muốn ngoại thích trong thiên hạ đều phải mang họ Tào à", ta lại có phần hồ đồ, không thể hiểu nổi thái độ của ngài đối với hoàng hậu rốt cuộc là sao.

Hình như hoàng hậu trước nay đều chưa từng giành được thịnh sủng, thậm chí người kim thượng muốn lập làm hoàng hậu ban đầu cũng không phải bà, trong cung, điều này cũng chẳng phải bí mật.

Hoàng hậu Quách thị, nguyên phối của kim thượng là do Chương Hiến thái hậu chọn lập, kim thượng cũng chẳng mấy yêu mến. Khi đó kim thượng chuyên sủng một vị mỹ nhân họ Trương khác, sau khi Trương thị chết thì sủng ái hai mỹ nhân Thượng, Dương, Quách hậu phẫn uất, nhiều lần tranh chấp với hai mỹ nhân. Một lần nọ, Thượng mỹ nhân có lời chống đối hoàng hậu ngay trước mặt kim thượng, hoàng hậu giận dữ, xông lên bạt tai mỹ nhân, kim thượng che cho mỹ nhân, Quách hoàng hậu không kịp thu tay, vô ý đánh lầm lên cổ kim thượng. Lúc ấy Chương Hiến thái hậu đã băng hà, kim thượng chẳng kiêng dè gì nữa, tức thì nổi giận phế hậu, hạ chỉ giáng Quách thị làm Tịnh phi, bắt làm đạo sĩ, pháp hiệu Ngọc Kinh Xung Diệu tiên sư, ban tên Thanh Ngộ, ra sống ngoài cung.

Quần thần phản đối kim thượng chọn người trong số tần ngự hiện hữu lập hậu, nói lấy thiếp làm thê là đảo ngược trưởng thứ, tuyệt đối không được. Không lâu sau khi phế hậu, kim thượng ra chiếu tuyển cháu gái Tào Bân vào cung, song chưa phong hậu ngay. Khi ấy kim thượng để ý tới một mỹ nhân tuyệt sắc, là con gái họ Trần buôn trà ở Thọ Châu, nhưng chư thần liên tiếp dâng sớ, không cho kim thượng "lấy kẻ thấp kém lập trung cung".

Phụ thân cô gái họ Trần có hiệu "tử thành", "tử thành sứ" vốn là tên chức quan thị vệ ở nha môn. Diêm Sĩ Lương, quan chủ quản Ngự dược viện khi đó cầu kiến kim thượng, hỏi ngài có biết tử thành sứ là chức quan gì không, kim thượng đáp không biết, Diêm Sĩ Lương bèn nói: "Tử thành sứ là tên quan nô bộc nhà đại thần. Nếu bệ hạ nạp con gái nô bộc làm hậu, chẳng phải thẹn với công khanh đại phu ư?" Kim thượng tỉnh ngộ, lệnh con gái họ Trần xuất cung, sau cùng lập con gái thế gia Tào thị làm hậu.

"Phi bạch của hoàng hậu là vào cung rồi mới luyện," Sau buổi hôm ấy, Miêu thục nghi nói cho ta biết thế, "Ngẫu nhiên có cơ hội hầu hạ quan gia viết chữ, chị ấy sẽ mở to hai mắt yên lặng xem, trở lại gác mình rồi thì tập đi tập lại cả ngày lẫn đêm. Có hôm quan gia đi qua chỗ chị ấy, thấy chị ấy đang múa bút luyện phi bạch trong phòng, chữ viết cũng hào sảng dễ thương, quan gia nhất thời nổi hứng, tay nắm tay dạy chị ấy. Mấy ngày sau thì hạ chỉ lập chị ấy làm hoàng hậu."

Tình ý của đế hậu nảy sinh từ phi bạch, bởi vậy nên trong mắt kim thượng, điểm rung động lòng người nhất ở hoàng hậu được thể hiện trong lúc viết chữ.

Ba ngày sau đó, kim thượng đều qua đêm ở Phúc Ninh Điện.

Nghe tin này, ta vậy mà lại có phần vui vẻ.

Kim thượng bằng lòng tiếp nhận lời can gián của hoàng hậu, lại ngày càng gần gũi với hoàng hậu hơn, như vậy tương lai khi hoàng hậu đề cập tới việc Thu Hòa xuất cung, hẳn ngài sẽ không cự tuyệt.

Trước tết Nguyên Tiêu, ta chuyển cáo cho Thôi Bạch câu trả lời của hoàng hậu, xem tình hình trước mắt, hết thảy đều nước chảy thành sông, tựa hồ tất cả mọi chuyện đều đang tiến triển theo phương hướng hoàn mỹ nhất đã dự tính.

Nhưng chẳng biết tại sao, lúc còn đang nghĩ thế, trái tim bỗng nảy lên "thình thịch" vài cái mà chẳng mảy may có lấy một lý do

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen30h.Com