Truyen30h.Com

Co Thanh Be Milan Lady

1. Trạng nguyên

Cảnh tượng công chúa tưởng tượng đã thực sự diễn ra vào tháng Ba, đương nhiên, chàng trạng nguyên ưa nhìn ấy không phải là ta.

Vài ngày sau kỳ thi đình ở Sùng Chính Điện, kim thượng ngự Tập Anh Điện, kết quả cuối cùng của lần tiến cử này được tuyên bố xướng danh ở đó. Theo lệ, khi ấy, nữ tử hậu cung có thể theo hoàng hậu lên Thái Thanh Lâu kề bên Tập Anh Điện, chiêm ngưỡng phong thái tiến sĩ tân khoa.

Hôm đó, trên Thái Thanh Lâu giăng một bức rèm châu tơ màu, ngự tọa của hoàng hậu đặt mé đông lầu, công chúa ngồi bên cạnh bà, cung quyến theo thứ tự ngồi đằng sau họ, chỉ riêng Trương quý phi là bày mưu kêu nội thị tùy tùng đặt một chỗ ngồi khác ở mé tây, rèm tơ quạt thêu, màu sắc và hình thức đều gần với của hoàng hậu, nhìn từ dưới lầu lên, tựa như hai cung ngang hàng.

Tham gia nghi thức xướng danh lần này ước chừng có bốn, năm trăm sĩ tử, chia làm hai nhóm tiến vào, lục tục dừng bước đứng nghiêm trên Tập Anh Điện, đều mặc áo bào trắng muốt, dưới ánh nắng rực rỡ ban ngày, áo mũ trước mắt trắng như tuyết.

Đến giờ xướng danh, tiếng nhạc lễ ngưng, sĩ tử và người xem đều nín thở, chờ hoàng đế trong điện mở niêm phong danh sách, công bố tên tiến sĩ.

Chốc lát sau, tên trạng nguyên do kim thượng đích thân tuyên đọc qua tiếng sáu bảy vệ sĩ đồng thanh hô truyền, vang vọng trong ngoài đại điện: "Tiến sĩ đứng nhất – Phùng Kinh đất Giang Hạ."

Trong hàng ngũ sĩ tử rộ lên một làn sóng xôn xao nho nhỏ, tiếp đó, một sĩ tử trẻ tuổi từ trong đi ra, không nhanh không chậm cất bước tiến vào giữa điện, dáng dấp thanh tú, tư thái thong dong.

Phần lớn cung tần trên Thái Thanh Lâu đều cầm lòng không đậu, nhao nhao nghiêng người về phía trước quan sát chàng trạng nguyên tân khoa này, tiếc rằng khoảng cách hơi xa, ngay sau đó chàng ta lại đi vào Tập Anh Điện nên dung mạo cụ thể thế nào chúng cung tần chẳng kịp nhìn rõ, không kìm được hỏi thăm lẫn nhau: "Cô có thấy rõ trạng nguyên trông ra sao không?"

Đúng lúc này, nội điện thừa chế Bùi Tương đứng hầu bên hoàng hậu cười, nói: "Dung nhan tướng mạo vị trạng nguyên này có thể nói là xuất chúng nhất trong số các trạng nguyên từ trước tới nay của quốc triều đấy ạ."

Bùi Tương là một trong những hoạn giả tài hoa nhất bản triều. Cha nuôi y, nội thị Bùi Dũ triều Chân Tông, giỏi tài ngâm vịnh, có thi danh, bản thân Bùi Tương cũng thích đọc sách, lại được Bùi Dũ dốc lòng bồi dưỡng nên tài văn chương từ thuở thiếu thời đã có thể sánh ngang với tiến sĩ, hiện đang làm việc ở Bí các, phụ trách hiệu đính sách vở, chức vụ gần như y hệt một văn thần. Trong những năm Minh Đạo, kim thượng ngự ở tiện điện, thử tài thi phú của tiến sĩ, nhất thời nổi hứng, lệnh Bùi Tương khi ấy đang phục dịch bên cạnh làm bài. Bùi Tương vui vẻ lĩnh mệnh, vung tay làm ngay. Sau khi đọc thi phú của y, kim thượng cảm thán tán thưởng, người chung quanh cũng rung động theo. Kể từ đó, phàm là thi đình, kim thượng đều sẽ lệnh cho Bùi Tương ở bên hầu hạ, thi thoảng kiểm tra bài thi của tiến sĩ thay mình, truyền báo nội dung bài thi. Thế nên tình hình tiến sĩ tân khoa ra sao, Bùi Tương cũng khá am tường.

Y nói câu này đã kích thích nên một trận hô reo vui cười trong nhóm nữ tử, ai nấy đều hai mắt sáng rỡ, càng thêm tò mò. Miêu thục nghi lớn lên trong cung từ nhỏ, từng xem mấy khóa tiến sĩ, nghe vậy cất tiếng hỏi Bùi Tương: "So với Vương trạng nguyên mười chín năm trước thì thế nào?"

Ý bà chỉ Vương Củng Thần, ngày nay cách lúc y thi đỗ năm Thiên Thánh thứ tám đã được mười chín năm.

Bùi Tương đáp: "Khi ấy Vương thị lang mới chỉ mười chín tuổi, tuy rằng khôi ngô song hãy còn gầy gò non nớt, tựa một cây trúc xanh. Vị trạng nguyên khóa này hơn thị lang năm đó vài tuổi, phong thái thanh mà không bần, đứng trong chúng sĩ tử lóa mắt như cây đường đệ nở hoa vậy."

Hoàng hậu nghe xong mỉm cười: "Bùi thừa chế thư họa song tuyệt, tả người nghe cũng như vẽ tranh ấy."

"Hoàng hậu quá lời..." Bùi Tương ngậm cười cúi người: "Thần chỉ thành thật trả lời câu hỏi của Miêu nương tử mà thôi... Tài học của Phùng trạng nguyên cũng vô cùng xuất chúng, thi hương, thi hội trước khi thi đình đều đứng thứ nhất, cộng thêm kết quả xướng danh hôm nay thì chân chính là đỗ tam nguyên rồi."

Trạng nguyên đỗ tam nguyên trong lịch sử quốc triều chỉ có bốn người. Nghe y nói vậy, chúng nữ tử đều chẳng để tâm gì đến những tiến sĩ xướng danh sau đó nữa, vây lấy Bùi Tương hỏi miết về trạng nguyên. Hỏi hết một lượt từ quê quán, tuổi tác, xuất thân đến nội dung thi phú thi đình rồi, một nội nhân bạo gan thắc mắc một câu giòn giã: "Trạng nguyên đã có gia thất hay chăng?"

Mọi người cười phá lên, làm ty cung lệnh cả kinh vội ra hiệu: "Im lặng! Bị sĩ tử nghe thấy còn ra thể thống gì."

Chư nương tử và nội nhân miễn cưỡng kìm ngưng tiếng cười, vừa trêu ghẹo nội nhân đặt câu hỏi, đồng thời cũng nhướng mày cong miệng ngó Bùi Tương, chờ y trả lời.

Mà đáp án của Bùi Tương cũng không làm họ thất vọng: "Mấy năm trước Phùng trạng nguyên từng cưới một nương tử, nhưng vị nương tử này mất sớm, từ đó đến nay vẫn chưa lấy vợ."

"Ồ..." Chúng nội nhân rộ tiếng, nghe như thở phào nhẹ nhõm.

Công chúa thấy vậy không khỏi phì cười, thì thầm với ta: "Người ta có gia thất hay chăng thì liên can chi tới họ? Họ cũng có lấy được người ta đâu, sao phải quan tâm vậy chứ?"

Ta cười không đáp. Ngày thường chung đụng với đám nội nhân đã lâu, có thể láng máng đoán được tâm tư họ. Họ tuy tự biết mình không thể kết duyên cùng trạng nguyên, nhưng đối mặt với một nam tử vừa lòng đẹp mắt vẫn sẽ luôn hi vọng chàng gắng hết sức duy trì trạng thái độc thân, cho họ thêm không gian mơ mộng.

Năm cái tên đỗ đầu sau khi được kim thượng đích thân tháo niêm phong công bố lại trải qua lần lượt từng nhóm hoạn giả xướng danh, đợi đến khi xướng xong tên người thứ năm, kẻ sĩ vào điện cầm sắc thư vàng tươi, hạ bái một lần nữa xong, trên điện lại vang lên tiếng truyền: "Ban thưởng bào, hốt cho tiến sĩ."

Nghi thức ban thưởng áo lục, triều hốt cho tiến sĩ tiến hành dưới hai dãy nhà hông bên ngoài Tập Anh Điện. Năm người lấy trạng nguyên dẫn đầu ra cửa điện, khoác một tấm áo lụa màu vàng nhạt dưới sự giúp đỡ của hoạn giả trước rồi lấy công phục bằng la màu xanh lục, đai lưng vàng nhạt, nhận triều hốt trắng. Sau đó, vài trăm kẻ sĩ nối tiếp đi qua, tranh nhau lấy bào hốt trên hành lang, không buồn cởi áo trắng ra mà trực tiếp tròng luôn áo lục vào. Cảnh tượng loạn cào cào, làm mất ráo cái vẻ thong dong của năm người đỗ đầu, nhóm cung tần chứng kiến lại cười vang một trận.

Đợi kẻ sĩ khoác áo buộc đai xong xuôi, hoạn giả dẫn họ lên điện tạ ơn. Một chốc sau, lại thấy trạng nguyên dẫn chúng tiến sĩ đi ra, theo hoạn giả tới trước Thái Thanh Lâu, hành lễ với hoàng hậu.

Hoạn giả dẫn họ tới nơi rồi không có chỉ thị gì thêm, ta liếc thoáng qua mé tây nơi Trương quý phi ngồi, trong khoảnh khắc từng ngờ rằng trạng nguyên sẽ không phân biệt được vị trí của hoàng hậu, bởi nghi trượng rèm màu hai bên khác biệt quá ít, người chưa quen với nghi chế trong cung chưa chắc đã phân rõ được. Song trạng nguyên Phùng Kinh chỉ bình thản đưa mắt liếc lên lầu một cái rồi lập tức chuyển sang mé đông, dẫn người hạ bái.

Miêu thục nghi đại khái cũng nghĩ như ta, thấy chàng phân biệt được vị trí của hoàng hậu thì cười nói: "Chàng trạng nguyên này có mắt đấy."

Bùi Tương mỉm cười: "Nếu đến đông tây đích thứ còn chẳng biết phân biệt thì uổng cho cái danh trạng nguyên quá rồi."

Hoàng hậu cười mỉm ra hiệu bảo người hầu truyền dụ miễn lễ, lại phân phó đi lấy bánh trà Long Phượng và tiền hào ban thưởng cho trạng nguyên và chúng tiến sĩ, đồng thời lấy trà Thất Bảo (*) ban thưởng cho quan khảo thí, tri cống cử (**), hàn lâm học sĩ Triệu Tư.

(*) Trà Long Phượng là trà cống thời Bắc Tống, do Bắc Uyển Kiến An chuyên sản xuất phục vụ cho hoàng gia; bởi trên bánh trà có dấu hình long phượng nên gọi là trà Long Phượng; trà Thất Bảo là loại trà điều chế từ lá trà và bảy loại gia vị tính ngọt, là thức uống quý dùng trong cung đình triều Tống.

(**) Là vị quan đặc mệnh quản lý việc thi cử và tiến cử, thường do đại thần có danh vọng trong triều đảm nhiệm.

Tiến sĩ lễ xong, từng người lui xuống, nhưng trạng nguyên Phùng Kinh thì vẫn đứng tại chỗ, đợi những người còn lại tản đi cả rồi mới đứng dậy, bái lạy hoàng hậu thêm lần nữa, bình thân rồi lùi ra sau mấy bước, bấy giờ mới xoay người đi.

Trong khoảng thời gian ấy, nhóm nội nhân phía sau rèm châu đều chen lên lan can xem, hai mắt hàm tình, má đỏ hây hây, thấy trạng nguyên rời đi đều tỏ vẻ thất vọng mất mát. Công chúa nhỏ người, trước đó ít nhiều cũng có phần dè dặt nên không chen lên xem, lúc này thấy trạng nguyên sắp đi mới quýnh lên, nghiêng người về phía lan can, lấy cán ngọc chiếc quạt lụa trong tay vén bức rèm che lên ngó trạng nguyên.

Đại khái do luống cuống quá đỗi, tay nàng khẽ run, chiếc quạt lụa tuột mất, tà tà rơi xuống, lượn mấy vòng trên không trung, lại bị gió thổi ra trước, đáp đất bên chân Phùng Kinh.

Phùng Kinh dừng bước, quay đầu ngước lên lầu, truy tìm quỹ đạo bay xuống của chiếc quạt lụa. Khóe miệng chàng ngậm cười, đứng im một thoáng, hiến cho người trên lầu một khung cảnh chi tiết tỉ mỉ hệt như tranh vẽ.

So với trạng nguyên Vương Củng Thần mười chín năm trước, vẻ đẹp của Phùng Kinh có độ ấm hơn hẳn. Dáng vẻ người trước thanh cao lạnh lùng như bước ra từ ánh trăng, mà nụ cười người sau thì hòa nhã trong trẻo, chứa đựng sự tự tin bình thản mà chàng có, bộ áo trong vàng ngoài lục được mắt mày tinh xảo và phong thái tiêu sái của chàng trao cho cái chất hoa lệ có thể khiến người xem liên tưởng đến một vài hình ảnh vui tươi xán lạn, chẳng hạn như cơn mưa hoa hạnh dương liễu trên cánh đồng hay vó ngựa phấn chấn trong gió xuân lồng lộng.

Lúc chiếc quạt rơi xuống, công chúa hơi hãi hùng, rụt tay về sau, song chung quy lòng hiếu kỳ chưa thỏa, lại đưa tay đẩy hai chuỗi châu ra, ánh mắt khéo léo khẽ khàng đậu lên gương mặt đẹp đẽ của chàng trai dưới lầu.

Phùng Kinh hơi ngửa đầu, tầm mắt chuyển tới chỗ rèm châu rung rinh trên Thái Thanh Lâu, nụ cười dịu dàng nhuốm chút vẻ lười nhác, mắt híp hờ, chẳng biết là đang né tránh ánh mặt trời vàng óng hay đang hưởng thụ sự săn sóc của nó.

Bốn mắt chạm nhau, công chúa như bị phỏng, lập tức buông tay, thả bức rèm che giấu đi khuôn mặt vừa lộ nửa của mình. Động tác vội vàng ấy lại làm dậy lên một trận khúc khích của cung tần, nàng cũng chẳng thanh minh hay phản bác điều gì như mọi ngày.

Phùng Kinh dưới lầu cười tủm tỉm nhặt quạt lụa lên, cúi đầu ngắm nghía. Một tay cầm cán quạt, một tay vuốt ve mặt quạt, như muốn xóa đi cái bóng trên mặt quạt do chiếc mão tầng kép (*) sa đen và dải tua trên đầu chàng in lên.

(*) Một loại mũ, hay đúng hơn là kiểu đội mũ của kẻ sĩ thời Đường – Tống, bên trên khăn chít đầu (tức mũ cánh chuồn) lại đội thêm một chiếc mão nữa.

Trên lầu, công chúa im lặng dõi thẳng mắt ra phía trước, bức rèm thủy tinh đung đưa đón lấy sắc nắng xuân, lung linh phát sáng, rọi lên mặt nàng từng vệt màu trong suốt ngất ngây, mà đôi má nàng thì phơn phớt ửng hồng trong thứ ánh sáng lay động hờ hững ấy.

Hoàng hậu sai nội nhân xuống dưới, kéo vạt váy hành lễ với Phùng Kính, xin lấy quạt lụa về. Phùng Kinh khom người, hai tay nâng quạt lên ngang mày, giao chiếc quạt cho nội nhân rồi quay sang thi lễ với hoàng hậu, từ từ lui đi.

Nội nhân lên tới lầu, đưa quạt cho công chúa, công chúa không nhận, lùi ra sau một bước, nói: "Người ngoài chạm vào rồi, ta không cần nữa."

Du sung nghi nghe vậy cười bảo: "Chao, từ bao giờ mà công chúa bắt đầu để ý nam nữ thụ thụ bất thân thế?"

Mọi người nương lời phá lên cười. Công chúa vừa thẹn vừa cuống, thấp giọng: "Mặc kệ các người!" rồi kéo lấy tay ta, "Hoài Cát, chúng ta đi." Dắt ta chạy ào xuống lầu trốn vào Hậu uyển.

Ta vừa đi vừa cẩn thận quan sát nàng, thấy hai mắt nàng long lanh, nét mặt hãy còn vương sắc đào.

Đây là lần đầu tiên nàng chân chính ý thức được vẻ đẹp của nam tử, nhỉ. Ta phiền muộn nghĩ. Chuyện đánh rơi quạt này mà là ở thời Đường thì có lẽ sẽ trở thành một giai thoại – Khi ấy, trạng nguyên có thể cưới công chúa.

Dời mắt lên bàn tay mà nàng đang nắm của ta, nghĩ đến cây quạt vì bị Phùng Kinh chạm vào mà bị nàng vứt bỏ, một ý niệm vốn mơ hồ lúc này lại hiện lên rõ mồn một trong đầu: Nàng không hề để ý có tiếp xúc tay chân với ta cố nhiên là không coi ta thành người ngoài, nhưng, quan trọng hơn cả, cũng không coi ta là một người con trai.

Ta ngửa mặt hít lấy một hơi thật sâu bầu không khí thấm đẫm hương hoa cỏ tháng Ba, cố sức trợn to hai mắt, không để công chúa nhìn thấy hốc mắt mình ẩm ướt. Nàng có cử chỉ thân mật với ta mà lại khiến ta khó chịu như thế, đây là lần đầu tiên.

Sau khi nghi thức xướng danh kết thúc, hoàng đế theo lệ sẽ ban thưởng rượu thịt cho tiến sĩ, còn ban thưởng cho trạng nguyên tuấn mã roi tơ, tiếp đó chọn ra bảy cấm vệ từ Kim ngô ty (*), hai người dẫn trước, hộ tống trạng nguyên trở về Kỳ tập sở nơi tiến sĩ tân khoa tụ hội. Chạng vạng cùng ngày, đế hậu dẫn cung quyến dự tiệc rượu ở Thăng Bình Lâu.

(*) Tức cấm vệ quân.

Đế hậu vừa lên lầu, còn chưa mở tiệc đã có nội thị tiến vào, bẩm báo kim thượng vụ việc trạng nguyên gặp phải: "Quan gia, mới nãy có cấm vệ bên ngoài Đông Hoa Môn báo cáo rằng trạng nguyên vừa ra khỏi cửa thì bị một đám nô bộc nhà phú hào cưỡi ngựa xúm lấy, chẳng nói chẳng rằng vây quanh trạng nguyên, cưỡng chế thay đổi tuyến đường, cũng không biết là đưa trạng nguyên đi đâu."

Kim thượng trợn mắt: "Ban ngày ban mặt mà dám công nhiên bắt cóc trạng nguyên ngoài cửa cung, đâu ra cái lý ấy! Có biết là nô bộc nhà ai không?"

Nội thị ngập ngừng không đáp, Trương quý phi bên cạnh lại mất tự nhiên ho khẽ một tiếng, cúi người thưa với kim thượng: "Quan gia, đợt trước bác trai thần thiếp từng phái người nói với thần thiếp, bởi tán thưởng phong thái của Phùng trạng nguyên nên muốn mời chàng ta tới nhà chơi. Đám nô bộc này chắc là của nhà bác ấy. Tuy nô bộc có hơi lỗ mãng nhưng bác thiếp mời hoàn toàn là có ý tốt, tiệc xong nhất định sẽ tiễn chàng ta về tử tế, xin quan gia chớ lo lắng cho trạng nguyên."

"Bác trai" Trương quý phi nói đến chính là ông bác họ Trương Nghiêu Tá của ả, coi như là người có huyết thống gần nhất với ả trong gia tộc đằng cha. Mấy năm nay Trương quý phi được sủng ái, đã nhiều lần xin thưởng cầu ơn, giúp cho đường làm quan của Trương Nghiêu Tá thuận lợi trôi chảy, giữa tháng Ba vừa mới nhặt được chức tam ty sứ, chưởng quản tài vụ tài chính, làm quan viên trong triều lấm lét lườm nguýt. Trương Nghiêu Tá cậy nhờ được thế lực cung thất, rất lấy làm kiêu căng đắc ý, hiện giờ cưỡng chế mời trạng nguyên tới phủ tất nhiên không chỉ đơn giản là để nâng cốc đàm đạo.

Kim thượng hiển nhiên cũng hiểu rõ, hơi trầm ngâm rồi hỏi lại quý phi: "Em họ nhà nàng vẫn còn mấy cô là khuê nữ nhỉ?"

Trương quý phi cười lấy lòng: "Quan gia nói phải, còn bốn đứa chưa lấy chồng ạ."

Kim thượng hé cười nhàn nhạt, nhấp rượu trong ly, không nói gì thêm nữa.

Trương quý phi cẩn thận quan sát sắc mặt ngài, dò xét thỉnh cầu: "Quan gia, nếu trạng nguyên đã dự tiệc nhà bác thần thiếp rồi thì có thể ban thưởng chút rượu ngự cho chàng ta, biểu thị đặc ân không?"

Kim thượng liếc ả, cười như không cười: "Cũng chẳng phải là không thể."

Trương quý phi mừng húm, vội gọi nội thị chọn kỹ rượu ngự món ngon, đưa tới dinh thự Trương Nghiêu Tá.

Chúng tần ngự yên lặng coi xem, cũng không nói gì nhiều, tiệc xong mới tụ lại một chỗ trò chuyện riêng, rất khinh bỉ hành vi của Trương Nghiêu Tá, nói ông ta chắc chắn là muốn cậy thế bức hôn trạng nguyên, vừa mưu rể hiền cho con gái vừa muốn mượn hơi vị quý nhân trong triều tương lai này, biến chàng trở thành cánh chim của quý phi.

Công chúa nghe được bập bõm đôi câu, cũng rất lo lắng, len lén hỏi ta: "Phùng trạng nguyên liệu có bằng lòng không?"

Nhớ tới cảnh trạng nguyên yết kiến trung cung ban ngày, ta không do dự nhiều, cho nàng một đáp án xác định: "Không đâu ạ."

Hôm sau, tin tức truyền đến đã chứng minh cho dự đoán của ta. Từ sáng sớm, phu nhân Trương Nghiêu Tá đã vào cung gặp Trương quý phi, theo lời người trông thấy bà ta, sắc mặt bà ta lúc đó sầm sì bí xị, lạnh lẽo băng sương.

Chuyện bà ta khóc lóc kể lể với quý phi rằng trạng nguyên khước từ hôn sự nhanh chóng truyền ra ngoài thông qua các cung nhân Ninh Hoa Điện, lược bỏ những lời lẽ thêm mắm dặm muối của Trương phu nhân thì việc xảy ra hẳn là thế này: Nô bộc nhà họ Trương vây kéo Phùng Kinh tới được dinh thự Trương Nghiêu Tá rồi, Trương Nghiêu Tá và Vương Chí tươi cười niềm nở ra đón, mời chàng vào bàn, lại nhờ Vương Chí làm mai cầu hôn, xin Phùng Kinh cưới con gái Trương Nghiêu Tá. Trương Nghiêu Tá thậm chí còn mang đai vàng vua ban trước đây ra, sai người ép buộc đeo lên hông trạng nguyên, nói: "Thánh thượng cũng có ý chỉ hôn." Qua một lúc, nội thị trong cung mang rượu quý món ngon tới như xác nhận câu "chỉ hôn", nhưng Phùng Kinh vẫn không gật đầu bằng lòng. Trương Nghiêu Tá chờ đến sốt ruột, dứt khoát bày hết trác hộc đồ đạc xa hoa chuẩn bị cho con gái ra, chỉ cho Phùng Kinh xem. Phùng Kinh chỉ cười chứ chẳng xem kỹ, cởi đai vàng xuống trả lại cho Trương Nghiêu Tá, nói: "Việc hôn nhân cần nghe lệnh cha mẹ. Hiện bà cụ tôi không có ở đây, Kinh không dám tư định chung thân, mong Trương ty sứ rộng lượng thứ cho."

Trương Nghiêu Tá nói không sao, chỉ cần sai người về quê Phùng Kinh xin phép lão phu nhân là được, Phùng Kinh lại cười đáp: "Hôm trước bà cụ tôi bảo người truyền tin, nói đã bàn bạc thỏa đáng cho Kinh một mối hôn sự. Kinh không dám trái lời phụ mẫu, xin Trương ty sứ chọn lấy vọng tộc khác, đừng để kẻ hàn vi quê mùa Kinh đây làm lỡ tuổi hoa của quý tiểu thư."

Trương Nghiêu Tá hỏi người Phùng mẫu kết thân là con gái nhà ai, Phùng Kinh nói mình cũng không rõ. Trương Nghiêu Tá biết là chàng cố ý cự tuyệt, song cũng chẳng thể làm thế nào, cuối cùng đành thả chàng về.

Mấy ngày sau, kim thượng rất nhanh dùng một tờ chiếu lệnh bày tỏ thái độ thật sự của mình với chuyện này: Điều Thiên Chương Các đãi chế, lại bộ lang trung Vương chí làm tri Hồng Châu.

Chuyện khước từ hôn sự càng khiến tiếng thơm của trạng nguyên Phùng Kinh lan xa hơn, nghe nói đến bách tính ngoài cung nghe kể cũng tán tụng không ngớt, rất nhiều thế gia hào phú nhờ bà mối ngày ngày đến trước cửa chỗ Phùng Kinh trọ cầu kiến, mà chàng thì mỗi lần ra ngoài đều sẽ bị vài quả tú cầu đập trúng quan phục, làm kim thượng không thể không tăng thêm vệ binh bảo hộ chàng.

Sau đó không lâu, ta và công chúa đã được tận mắt chứng kiến cảnh toàn thành rầm rộ theo đuổi trạng nguyên bên Kim Minh Trì.

Hôm ấy, Ngụy quốc đại trưởng công chúa, bà trẻ của công chúa, vô ý trượt chân trong lúc tắm rửa, bị thương cánh tay phải. Con trai bà sai người đến báo, kim thượng hay tin lập tức lệnh hoàng hậu dẫn công chúa và Miêu thục nghi đến phủ đại trưởng công chúa thăm hỏi, ta cùng đi với công chúa.

Ngụy quốc đại trưởng công chúa hiền lương thục đức, xưa nay đối đãi với hạ nhân luôn khoan hậu nhân từ. Thấy nội thị kim thượng phái tới trách mắng người hầu phụng dưỡng mình không chu toàn, lập tức nói với hoàng hậu: "Ta đã sáu mươi hai rồi, già cả sức yếu, đi lại không tiện, vô ý trượt chân vốn cũng chẳng phải lỗi của tùy tùng. Xin quan gia và hoàng hậu chớ trách phạt chúng nó."

Hoàng hậu bèn bảo nội thị thôi nhiếc móc người hầu, không truy cứu trách nhiệm của họ nữa. Đại trưởng công chúa gọi công chúa qua, hỏi tình hình gần đây, lại ôn tồn dặn dò nàng tương lai phải đối xử tử tế với phò mã và người nhà, hiếu thuận với cha mẹ chồng, kính yêu phu quân. Công chúa nhất nhất ưng thuận, nhưng sắc mặt cũng chẳng quá nghiêm túc, như không mấy để tâm.

Rời khỏi phủ đại trưởng công chúa về cung, công chúa ngồi chung xe kiệu với hoàng hậu, ta cưỡi ngựa kèm bên, xe liễn của Miêu thục nghi thì theo phía sau. Vừa đi tới Kim Minh Trì thì thấy đường cái trước mặt đông nghịt đầu người, nhốn nháo nhộn nhịp, ngựa xe như nước, xe kiệu của hoàng hậu bị chặn đứng ở đó, không đi tiếp được nữa.

Hoàng hậu sai cận thị lên trước tìm hiểu. Một chốc sau, cận thị trở về, bẩm: "Hôm nay Quỳnh Lâm Uyển mở tiệc tin mừng, tiệc tan trạng nguyên và chúng tiến sĩ đi ra, người kinh đô chờ bên ngoài vườn đổ xô chiêm ngưỡng phong thái, cũng có không ít hào phú phái xe kén rể đến, làm đoạn đường trước Kim Minh Trì tắc nghẽn hết cả."

Sau hôm xướng danh mỗi khóa tiến sĩ mấy ngày, hoàng đế đều sẽ thưởng "tiệc tin mừng" ở Quỳnh Lâm Uyển, chiêu đãi tiến sĩ tân khoa, đồng thời cử nội thị và một số quan viên đi tiếp đãi. Mà ngày ấy, người kinh đô hay tin cũng lập tức hành động, canh trên đường quan sát. Ai trong nhà còn con gái chờ gả thường sẽ chuẩn bị ngựa xe qua, thấy có tiến sĩ trẻ tuổi là tiến lên bắt chuyện mời chào ngay, thậm chí còn thẳng tay kéo luôn vào xe mang về nhà cầu hôn, loại xe này thành ra được gọi là xe kén rể.

Trước kia, cung quyến xuất hành luôn là tiêu điểm chú ý của du khách, nhất là xe kiệu của hoàng hậu, lúc đi trên đường, thần dân tuy rằng cung kính dạt sang hai bên tránh nhưng vẫn sẽ không nhịn được ngẩng đầu ngước mắt dò xem, mặc dù rất khó thấy được dung nhan quốc mẫu, nhưng nhìn rõ được nghi trượng xa giá cũng là chuyện họ rất mong đợi. Nhưng tình hình hôm nay khác hẳn mọi khi, người trên đường không lập tức tách ra ngay, cũng không để ý đến nghi trượng của hoàng hậu, mà ai nấy đều kiễng chân phóng mắt ra trước xe kiệu như đang chờ ngóng điều gì.

Nội thị mở đường chẳng lấy gì làm dễ dàng, xa giá di chuyển khó khăn, lúc đi lúc dừng mất một hồi lâu. Sau nữa, nghe thấy phía trước vang lên tiếng quát la, du khách dần bị gạt sang hai bên, rốt cuộc cũng nhường ra được con đường. Vài tay cấm vệ khoái hành từ đối diện đi tới, trong tay cầm chiếu chỉ sắc vàng bổ nhiệm trạng nguyên của hoàng đế, đằng sau là cờ phướn vàng chói lộn xộn, nhiều đến mấy trăm lá, trên mỗi lá đều có câu từ, phấp phới theo chiều gió. Lướt qua đám đông vây xem nhiều như mây trời, chỉ thấy trạng nguyên Phùng Kinh chậm rãi giục ngựa, vẫn mặc bộ áo trong vàng ngoài lục, đầu đội mão tầng kép vuông vắn bằng sa đen, hai bên buông thõng cặp dải tua tơ tím dài quá cằm, tôn lên dung nhan tựa ngọc của chàng.

Phùng Kinh trông thấy kiệu phượng của hoàng hậu, lập tức xuống ngựa, đi bộ lại gần, trịnh trọng bái lạy trước kiệu.

Hai nội nhân theo hầu nhẹ nhàng vén rèm thêu kiệu phượng, để hoàng hậu cách lớp rèm dày có thể nhìn rõ được cảnh tượng trước mặt.

Đưa mắt nhìn Phùng Kinh, lại dời sang những tiến sĩ còn lại đồng hành cùng chàng, hoàng hậu ôn hòa hỏi: "Trạng nguyên lang, hoa thượng uyển trên cài trâm của ngươi đâu rồi?"

Hoa cài trên trâm ghim khăn chít đầu được gọi là cài trâm. Trong tiệc tin mừng của tiến sĩ tân khoa, hoàng đế sẽ sai trung sứ ban thưởng hoa thượng uyển cho tiến sĩ cài lên trâm trở về. Hiện giờ tiệc tin mừng đã tan, trên trâm các lang quân áo xanh đều có hoa thượng uyển, chỉ mình Phùng Kinh là mũ mão trống không.

Phùng Kinh cúi đầu thưa: "Ban nãy trên tòa lầu bên đường có người ném chút đồ vặt xuống, đụng trúng mão thần, làm rơi hoa thượng uyển trên trâm..."

"Ồ?" Hoàng hậu kinh ngạc, "Còn có người dám ném đồ vào trạng nguyên nữa kia à?"

Đúng lúc này, có gã nội thị quát la dọn đường cho trạng nguyên tiến lên quỳ xuống, cười tủm tỉm giải thích với hoàng hậu: "Bẩm nương nương, rơi trúng mão trạng nguyên lang là tú cầu của một vị cô nương trên tòa lầu phía sau ném xuống. Hoa thượng uyển bị tú cầu đánh rơi còn chưa kịp chạm đất đã bị người vây xem tranh nhau cướp mất rồi ạ."

Ta ngước mắt, thấy trên lầu gác hai bên đường quả thực có rất nhiều nhà dinh sang quý giăng màn màu, chắc hẳn đám con gái đương thì đang náu mình trong đó ngắm nhìn trạng nguyên lang, cả ngày hôm nay chẳng biết Phùng Kinh đã bị bao nhiêu quả tú cầu đập trúng rồi nữa.

"Trạng nguyên lang thật lắm phong lưu." Hoàng hậu không khỏi cười rộ, sau đó phân phó nội nhân bên cạnh hái một đóa mẫu đơn dưới hiên xe kiệu xuống, tặng cho trạng nguyên cài lên trâm.

Xe kiệu hoàng hậu sử dụng có mái hiên khá rộng, hoa văn toàn hình rồng, trong tháng Ba, tùy theo phong tục dịp lễ thanh minh, hàn thực hoặc hoa triêu của Biện Kinh mà lấy dương liễu đan xen hoa trang trí trên đỉnh, rủ xuống bốn góc thành màn. Hoa đang dùng vào thời điểm hiện tại đều được hái mới trong ngự uyển hôm nay, tuy đã qua nửa ngày song hãy còn tươi thắm.

Mẫu đơn rủ xuống dưới hiên là loài cánh kép ngàn cánh, sắc tím cánh dày tầng tầng lớp lớp, còn được gọi là "bình đầu tử". Nội nhân hái một đoá xuống cài lên sườn mão tầng kép cho Phùng Kinh, Phùng Kinh mỉm cười, bái lạy tạ ơn hoàng hậu.

Hoàng hậu hiền hòa bảo chàng bình thân, đợi chàng tránh sang một bên rồi mệnh lệnh khởi giá hồi cung. Rèm thêu rủ xuống, xe kiệu lăn bánh, mà công chúa vẫn còn len lén vén màn che một bên cửa sổ, tròn mắt nhìn Phùng Kinh, khóe miệng he hé một độ cong sống động.

Chừng như nhận ra công chúa có duyên nửa mặt với mình, Phùng Kinh mỉm cười, hơi cúi người với nàng, phong độ vẫn tao nhã hoàn mỹ như trước.

Trở lại cung, hoàng hậu dẫn công chúa và Miêu thục nghi đến Phúc Ninh Điện phục mệnh kim thượng trước. Nói xong chuyện của Ngụy quốc đại trưởng công chúa rồi, hoàng hậu lại đề cập tới Phùng Kinh, kể lại toàn bộ tình huống vạn người tranh giành chiêm ngưỡng trạng nguyên, tú cầu đụng rớt hoa thượng uyển. Kim thượng nghe được phá ra cười, lắc đầu liên tục, nói: "Dạo phố một chuyến thôi đã gây ra bao nhiêu chuyện thế rồi, sau này không thể chọn anh tú tài nào khôi ngô như thế làm trạng nguyên nữa."

Lời thì nói vậy, nhưng khóe mắt bờ môi ngài vẫn nhuốm đẫm ý cười, như đang cố ý phàn nàn với người ngoài về những khuyết điểm không thể coi là khuyết điểm của đứa bé ưu tú nhà mình, giọng điệu mang vẻ cưng chiều của bậc làm cha mẹ.

Đại khái là liên tưởng đến phò mã Lý Vĩ, Miêu thục nghi ra chiều cảm khái, nhìn kim thượng, cất lời nửa thật nửa giả: "Quan gia cũng biết là Phùng trạng nguyên không tệ kia à? Chàng ta mà gặp được hoàng đế triều Đường thì quá nửa đã được phong làm phò mã rồi."

Kim thượng cười cười, cũng trả lời nửa giả nửa thật: "Ta cũng muốn phong hắn làm phò mã lắm, nhưng lấy đâu ra đứa con gái thứ hai? Kể cả có, bản lĩnh giành lang quân áo xanh về làm con rể của ta cũng chẳng đọ được với thần dân trong kinh, nhất là mấy lão già trong triều ấy, thực sự tranh không nổi với bọn họ mà!"

Công chúa im lặng ngồi nghe, không xen lời nào, có lẽ đó là sự thẹn thùng thiếu nữ được Phùng Kinh đánh thức. Trở lại Nghi Phượng Các, nàng yên tĩnh ngồi trên xích đu cúi đầu nghĩ ngợi thật lâu, bỗng thở dài thườn thượt, hỏi ta: "Tên Lý Vĩ kia có đúng là vừa đần vừa xấu thật không?"


2. Thanh ca (*)

(*) Từ này vừa có nghĩa là hát không có nhạc cụ đệm kèm, hay người mình gọi là hát chay, vừa có nghĩa là tiếng ca trong trẻo thanh thoát.

Ta không trực tiếp trả lời câu hỏi của công chúa, chỉ nói: "Nghe nói gần đây phò mã khổ học thi thư, khá có thành tựu."

Những năm nay, Miêu thục nghi luôn rất cảnh giác đề phòng công chúa gặp mặt Lý Vĩ, mỗi lần Lý Vĩ vào cung, nhất định sẽ không cho công chúa đến nơi hắn xuất hiện. Hoàng Hựu năm thứ hai, quốc cữu Lý Dụng Hòa bệnh không qua khỏi, kim thượng có ý bảo công chúa theo Lý Vĩ tới nhà họ Lý cúng tế, Miêu thục nghi kiên quyết phản đối, nói công chúa chưa xuất giá đã sang nhà chồng sẽ chỉ khiến người đời chê trách, sau cùng rốt cuộc cũng xin được kim thượng thu hồi mệnh lệnh đã ban, chỉ bắt công chúa mặc áo tang trong cung.

Miêu thục nghi khổ tâm trăm bề, chỉ mong công chúa không phải thất vọng vì phò mã không xứng đôi quá sớm. Sau nữa, bà thậm chí còn hạ lệnh cấm cung nhân trong gác không được đề cập đến phò mã Lý Vĩ trước mặt công chúa.

"Sao nương tử phải khổ vậy chứ?" Hàn thị từng khuyên bà, "Hiện giờ không cho công chúa biết phò mã ra sao thì tương lai lúc gả xuống đột ngột gặp mặt, chẳng phải sẽ càng khó chịu hơn sao?"

Miêu thục nghi buồn bã: "Kéo dài được ngày nào hay ngày ấy thôi. Trước khi gả xuống không biết còn sống được mấy năm vô tư thoải mái, nếu giờ đã biết ngay, về sau công chúa nghĩ đến Lý Vĩ như vậy ắt sẽ phiền muộn, tuổi còn nhỏ mà mặt mày đã sầu thảm thì chẳng biết sẽ còn khó chịu đến nhường nào."

Ta không dám luận xằng câu này Miêu thục nghi nói có chính xác hay không, có điều, mỗi bận bị công chúa hỏi, ta cũng quen thói trả lời theo hướng tích cực, không nhắc nhỏm gì đến khuyết điểm của phò mã.

Sau khi Phùng Kinh đỗ trạng nguyên, theo lệ được điều ra ngoài một năm làm giám thừa thông phán quân phủ (*) Kinh Nam. Nhiệm kỳ một năm thực ra là rất ngắn, đây là đặc ân dành cho người đỗ đầu tiến sĩ, các tiến sĩ còn lại đều phải làm nhiệm kỳ ba năm. Nhưng một năm này đối với công chúa hiển nhiên là dài đằng đẵng, trong quãng thời gian ấy, nàng chẳng còn cơ hội hé rèm ngó trộm chàng lang quân đẹp mắt ấy từ xa nữa. Đương nhiên, nàng không thường xuyên biểu lộ tình cảm dành cho Phùng Kinh, nhưng có đôi lúc, nàng sẽ nhìn bức rèm che đăm đăm một hồi lâu, thi thoảng lại thở dài sầu muộn.

(*) Giám thừa là chức quan giám sát ở một cơ quan nào đó, ở đây hẳn là quân khí giám thừa – quản lý vật dụng binh khí dùng trong quân đội; quân phủ là kho lương phục vụ cho quân đội.

Tết nguyên tiêu Hoàng Hựu năm thứ hai, trong cung có vài câu đố đèn lấy tên của đại thần để đố, trong đó có câu "Đi khắp thiên nhai gặp đế kỳ". Công chúa trông thấy, hai mắt sáng rực, lập tức trỏ vào reo: "Là Phùng Kinh!" (*)

(*) Họ Phùng (冯) của Phùng Kinh đồng âm với Phùng trong "tương phùng (相逢)" có nghĩa là gặp gỡ; Chữ Kinh trong tên Phùng Kinh ghép với chữ Kỳ thành "kinh kỳ" tức nơi vua đóng đô.

Lời buột khỏi miệng, nàng biết ngay không ổn, im bặt liếc ta một cái, đỏ bừng mặt thẹn thùng.

Ta gỡ tờ câu đố trên đèn lồng xuống, đưa cho tiểu hoàng môn bên cạnh, sai cậu ta đi lấy quà trúng thưởng cho công chúa, lại nói với nàng như không có chuyện gì xảy ra: "Chúc mừng công chúa, đoán đúng rồi."

Nàng gặp lại Phùng Kinh vào mồng một Tết năm Hoàng Hựu thứ ba, lúc triều đình tổ chức đại triều hội.

Ngày ấy hoàng đế ngự tại Đại Khánh Điện, tiếp kiến quan lại các châu vào kinh bẩm tấu và sứ thần các nước. Nơi tiến hành triều hội rất rộng lớn, có bốn gã võ sĩ đứng ở bốn góc điện, gọi là "trấn điện tướng quân", điện đình bày xa giá nghi trượng, văn võ bá quan đều triều phục mũ mão chỉnh tề đứng ở trong ngoài điện theo phẩm cấp, quan lại chư châu cầm vật hiến địa phương vào tấu, mà sứ thần các nước Khiết Đan, Hạ quốc, Cao Ly, Nam Phồn, Hồi Hột, Vu Điền, Chân Tịch, Đại Lý, Đại Thạch cũng đều mang cống phẩm theo nhóm vào điện chầu mừng.

Công chúa lấy lý do muốn nhìn đám sứ thần "râu dài mũi cao, tướng mạo quái dị" ngoại quốc, cầu được kim thượng cho phép nàng núp sau bình phong ngự tọa xem trộm nghi thức triều đình, mà ta thì biết mục đích thực sự của nàng là để xem Phùng Kinh nhậm chức bên ngoài trở về.

Sau khi Phùng Kinh trở về đã thông qua kỳ triệu thí vào được quán các, chức quan hiện tại là trực Tập hiền viện, phẩm cấp còn chưa đủ để đứng chầu trong điện, thế nên công chúa chỉ có thể nhìn chàng một thoáng ngắn ngủi khi chàng theo các quan viên quán các vào điện chầu mừng.

Áo bào la đỏ, diềm lụa đen, phương nội tâm lĩnh trắng, triều phục của Phùng Kinh không khác gì kẻ sĩ quán các chung quanh, nhưng trong nhóm vào chầu này lại vẫn chói lọi như kỳ lân phượng hoàng.

Công chúa không hề thất vọng, lúc trở lại trong cung còn lấp ló hé cười.

Nhưng nụ cười của nàng nhanh chóng tắt ngấm trong bữa tiệc cung đình tối đó.

Chầu mừng xong, hoàng đế ban thưởng cỗ rượu ở đại điện, còn hoàng hậu thì thết đãi mệnh phụ vào cung chúc tụng cùng ngày tại tiện điện Hậu uyển. Trước khi mở tiệc, nội ngoại mệnh phụ sẽ theo thứ tự lần lượt ra khỏi hàng bái lạy hoàng hậu, trong đó có một vị phu nhân tuổi còn rất trẻ, dung mạo cử chỉ nhã nhặn, xem dáng dấp phỏng chừng chưa quá hai mươi, lại chưa từng vào cung trước đây, hoàng hậu thấy nàng lần đầu đã để ý, trong yến hội còn liên tục ngoái nhìn, nội thị đô tri đứng hầu Trương Duy Cát phát hiện ra, bèn khom người thuyết minh: "Đó là phu nhân Phú thị mới cưới của trực Tập hiền viện."

Ta lập tức nhìn sang công chúa, thấy thần sắc hoan hỉ ban nãy của nàng đã bị câu này xóa sạch trong chớp mắt, vẻ mặt dần xám xịt.

Hoàng hậu nghe Trương Duy Cát nói rồi, càng để tâm hơn, bảo y mời Phú phu nhân tới trước ngự tọa, hỏi: "Phu nhân có phải con gái Phú thị lang?"

Phú phu nhân cúi đầu thừa nhận mình là con gái Phú Bật, hoàng hậu cười hiền: "Hèn chi ta cứ thấy phu nhân quen mắt, hóa ra là giống Án phu nhân."

Phu nhân Phú Bật là con gái của tể tướng tiền triều Án Thù, trước đây từng vào cung mấy lần, thế nên hoàng hậu nói vậy ý là vợ con Phú Bật bề ngoài giống nhau.

Tần ngự hai bên nghe xong đều quay sang ngó Phú phu nhân, cười hỏi nàng năm nay bao tuổi, thành hôn với Phùng Kinh khi nào, Phú phu nhân đỏ mặt nhất nhất trả lời, chư phu nhân lại sôi nổi chúc mừng nàng, chỉ duy Trương quý phi ngồi một bên hờ hững chen miệng: "Bảo sao gần đây không nghe nói Phùng học sĩ đi đâu xem mắt hộ ai nữa, chắc là bị Phú phu nhân quản chặt rồi."

Trương quý phi ám chỉ một chuyện thú vị lưu truyền trong triều vào năm ngoái, trực Tập hiền viện Tổ Vô Trạch tướng mạo xấu xí, hơn bốn mươi rồi vẫn chưa lấy được vợ, sau lại nhìn trúng một cô gái xinh đẹp họ Từ, liền nhờ bà mai hỏi cưới, nhưng Từ cô nương khăng khăng đòi phải thấy mặt Tổ Vô Trạch trước rồi mới cho câu trả lời. Tổ Vô Trạch tự biết Từ cô nương mà thấy mặt mình ắt sẽ không đồng ý hôn sự, bèn năn nỉ đồng liêu Phùng Kinh vừa vào quán các đi xem mắt hộ. Phùng Kinh chấp nhận lời nhờ vả của y, thong dong tiêu sái giương roi thúc ngựa lướt qua cửa nhà Từ cô nương, Từ cô nương vừa thoáng trông đã động lòng cảm mến. Bà mối của Tổ Vô Trạch chỉ vào bóng dáng Phùng Kinh nói với cô: "Đấy chính là Tổ học sĩ." Từ cô nương mừng rỡ khôn xiết, lập tức đồng ý hôn sự. Nào ngờ cưới xong phát hiện ra tân lang hàng không đúng mẫu, Từ cô nương nổi giận, lập tức viết "thư bỏ chồng" vứt cho Tổ Vô Trạch, sau đó thu dọn tư trang về nhà mẹ đẻ.

Trương quý phi nhắc đến việc này tất nhiên là không có ý tốt, nhưng chư phu nhân nghe vào đa số đều không nhịn được phì cười, làm Phú phu nhân lúng túng cúi gằm mặt, không biết phải làm sao cho phải. Du sung nghi thấy thế, khoan thai liếc Trương quý phi rồi cười nói với Phú phu nhân: "Đi xem mắt hộ cũng không sao, đừng để bị người ta kéo đi ép duyên là được."

Sắc mặt Trương quý phi sa sầm, ánh mắt sắc nhọn đâm thẳng vào Du sung nghi, mà Du sung nghi thì giả vờ không cảm giác được, bình tĩnh chỉnh trang hoa cài bên tóc mai.

Lúc này, hoàng hậu cất lời bảo chư phu nhân: "Phú phu nhân còn trẻ, lại là lần đầu tiên vào cung, không quen nghe các ngươi trêu ghẹo, sau này cũng đừng nói nữa."

Chư phu nhân cúi người thưa dạ. Hoàng hậu lại mỉm cười nhìn Phú phu nhân: "Có điều, phu nhân về rồi cũng phải khuyên Phùng học sĩ, về sau đừng đi xem mắt thay nữa. Tuy xuất phát điểm của chàng ta nguyên có ý tốt, muốn giúp đồng liêu kết thành lương duyên, nhưng đối với tiểu nương tử nhà người ta mà nói thì đây là hành động cố ý lừa gạt làm lỡ chuyện chung thân, chẳng khác nào ỷ đẹp hành hung."

Ỷ đẹp hành hung? Cách nói này cũng thật độc đáo. Ta lại liếc công chúa, thấy nàng ngơ ngác ngẩn người, đại khái cũng đang suy nghĩ lời hoàng hậu nói.

Phú phu nhân cúi người ưng thuận, hoàng hậu bảo nàng nhập tọa, tiếp tục xem tiệc rượu. Công chúa thình lình đứng bật dậy, đi ra ngoài. Ta theo gót như thường lệ, ra đến ngoài điện, nàng quay đầu trừng ta, giọng giận dữ: "Ta muốn đi thay y phục, không được phép theo ta!"

Trong mắt nàng đã rưng rưng lệ, chỉ chực tràn mi.

Ta im lặng dừng bước. Nàng nâng tay áo lau lệ, nhanh chóng chạy khỏi tầm mắt ta.

Ta trở lại trong điện. Bên trong vẫn là ca múa thái bình, xiêm y hoa lệ, lúc này hầu chuyện hoàng hậu đang là mấy vị phu nhân ngoại thích. Hoàng hậu hỏi thăm phu nhân Lý Dụng Hòa Dương thị tình hình gần đây của Lý Vĩ rồi hỏi sang em dâu mình, phu nhân Tào Dật Trương thị: "Đã lâu không thấy anh em hai đứa, chúng nó vẫn khỏe chứ?"

Trương phu nhân cười đáp: "Vẫn bình thường ạ, học qua loa vài trang sách, bắn lung tung mấy mũi tên, chẳng có tiền đồ gì. Nhờ phúc của nương nương và hoàng ân bao la của quan gia, mấy ngày trước cho thằng lớn nhậm chức cung phụng quan, hôm nay phu quân cũng đưa cả thằng lớn vào cung bái lạy tạ ơn đấy ạ."

Hoàng hậu lộ vẻ vui mừng: "Thằng lớn cũng tới à, sao không bảo nó đến đây gặp ta?"

Trương phu nhân nói: "Thần thiếp cũng muốn dẫn nó sang đây bái tạ nương nương, chỉ là nó giờ đã mười bốn, không phải lớn nhưng cũng chẳng còn nhỏ nữa, không tiện vào diện kiến chư vị phu nhân. Ban nãy thần thiếp có bảo nó bao giờ nghi thức chầu mừng kết thúc thì tới chờ dưới hàng hiên tiện điện Hậu uyển, đợi tiệc tan, nương nương tuyên triệu rồi vào."

Hoàng hậu cười: "Em sắp xếp như vậy cố nhiên thỏa đáng, chỉ là để thằng lớn đợi bên ngoài thế, chẳng phải bắt nó chịu đói à?" nói đoạn quay sang bảo Trương Duy Cát sai người mang chút đồ ăn ra cho Tào Bình.

Hoàng hậu tiếp tục ôn hòa thăm hỏi phu nhân trọng thần và ngoại thích, nhưng ta đã chẳng còn lòng dạ nào mà nghe tiếp, chỉ nhìn chằm chằm giá đèn ngàn nhánh, thầm đếm số lần ngọn lửa nhấp nháy trong bụng, dùng cách này tính toán thời gian công chúa rời đi.

Mà nàng mãi vẫn không về. Cuối cùng, ta từ bỏ chờ đợi, gọi hai tiểu cung nữ, đứng dậy ra cửa đi tìm nàng.

Cung nữ tìm khắp các phòng buồng lân cận mà không thấy công chúa ở trong. Ta không khỏi lo lắng, lập tức trở về Nghi Phượng Các tìm, cũng chẳng gặp đến bóng dáng nàng. Tức thì cuống lên, rảo bước bôn tẩu giữa các điện gác đại nội, một lòng chỉ mong tìm được nàng về.

Qua một lúc lâu, đèn hoa đã treo cao trong cung, ánh sáng núi đèn rực rỡ huy hoàng, mà vẫn không thấy tung tích công chúa đâu. Cuối cùng ta đi ra Hậu uyển, ủ rũ ngồi bên Tân Dao Trì, đờ đẫn nhìn chòng chọc bóng ngược của núi đèn chiếu trên mặt nước.

Chính lúc đó, chợt thấy nước hồ gợn sóng, một con thuyền nhỏ chèo từ giữa sen nổi liễu rủ ra, dấy lên những làn sóng nhè nhẹ xô vỡ hình bóng đèn hoa kim bích trong nước, thong thả đẩy chiếc thuyền bơi vào giữa hồ.

Trên thuyền có hai người. Ngồi ở đầu thuyền là một thiếu nữ, chiếm cứ đuôi thuyền là một thiếu niên. Cậu thiếu niên nhàn nhã khua chèo, vừa chầm chậm tát nước, vừa cất giọng hát ca: "Ngày lại qua ngày, trống êm ả. Thời gian giục giã, người lại già. Vui chẳng bao xa cảnh đẹp quá. Cất tiếng ca. Một khúc thần tiên Ngư gia ngạo."

Xướng tới đây, cậu thiếu niên hơi cúi người, nhấc một chiếc đèn hoa sen cung nhân thả trên mặt nước lên, mỉm cười đưa cho thiếu nữ trước mặt, rồi lại tiếp nối câu hát bên trên: "Nước xanh thăm thẳm trời biêng biếc. Nhân sinh được mấy ngày xuân tiết. Túy lúy cười to đừng để tiếc. Cần phải biết. Vạn sự thế gian mãi liên miên." (*)

(*) Bài từ "Họa cổ thanh trung hôn hựu hiểu" theo điệu Ngư gia ngạo của Án Thù.

Dưới ánh trăng, sương lắng sóng xanh trải mênh mang, thiếu niên một mình ôm mái chèo, tiếng thanh ca khi mờ khi tỏ, tuổi độ chừng mười bốn mười lăm, song đã rõ mày kiếm mắt sáng, dáng dấp phong lưu tràn sinh lực.

Mà thiếu nữ thì nhìn cậu chăm chăm, ngoại trừ lúc nhận chiếc đèn hoa, nàng một mực yên tĩnh ngồi đó, không mở miệng câu nào. Lúc bóng đèn theo gợn sóng lay ánh lên mặt nàng, có thể trông thấy dưới mắt nàng đọng vệt lệ loang loáng.

Ta lặng lẽ đứng dậy, đi tới dưới hàng liễu ven bờ, đợi thiếu niên chèo thuyền lại gần bờ rồi thì cúi người với thiếu nữ, giọng nhẹ nhàng: "Công chúa, phải về thôi."

Công chúa đứng dậy. Thiếu niên nhanh nhẹn nhảy lên bờ, buộc chặt thuyền, lại chìa tay cho công chúa tỏ ý muốn đỡ nàng lên.

Gần như đồng thời, ta cũng chìa tay về phía nàng.

Nàng thoáng do dự, cuối cùng vẫn chọn để ta dìu.

Công chúa lên bờ rồi, ta xá thiếu niên kia một lạy, nói: "Đa tạ Tào công tử."


3. Hội bắn

Ta không hỏi chi tiết nàng gặp gỡ Tào Bình ra sao, nàng cũng không kể cho ta, trên đường trở về Nghi Phượng Các, hai người chúng ta kẻ trước người sau trầm mặc bước đi, cách nhau gần như vậy mà lại xa đến thế, vào tới cửa gác rồi cũng không có lấy nửa câu đối thoại.

Ta hoàn toàn có thể tưởng tượng được khúc thanh ca của Tào Bình đã để lại ấn tượng thế nào cho nàng, thế nên khi nghe nàng nằn nì kim thượng cho nàng đi xem sứ giả Khiết Đan bắn cung ở nam ngự uyển, ta không cảm thấy kỳ quái một chút nào.

Vào nguyên đán hằng năm, sứ giả Khiết Đan sẽ tiến cung, triều kiến xong xuôi, hôm sau sẽ đến Đại Tướng Quốc Tự, ngày thứ ba thì tới nam ngự uyển Ngọc Tân Viên bắn cung, triều đình sẽ chọn vài võ thần thiện tài cung tiễn tiếp bắn rồi thưởng cỗ rượu tại chỗ. Bởi hậu tộc Tào thị vốn là tướng môn nên con cháu trong tộc đều giỏi cưỡi ngựa bắn cung, quan lại tiếp bắn thường chọn từ Tào thị, mấy năm gần đây, nhiệm vụ này đã liên tiếp được giao cho Tào Dật hoặc em trai Tào Giai. Tào Bình đã lớn, lại cũng tinh thông kỵ xạ, sớm muộn rồi cũng đảm nhiệm chức vụ tiếp bắn này. Chuyến này công chúa xin đi nam ngự uyển hẳn là do Tào Bình từng nói với nàng, mồng ba cậu sẽ theo cha.

Kim thượng chịu không nổi nàng mè nheo nài nỉ, miễn cưỡng đồng ý, nhưng lệnh nàng chỉ được phép xem trên lầu gác cạnh sân bắn cung, không được xuất hiện trong ngoài sân bắn, tránh cho người ngoài nhìn thấy.

Ngọc Tân Viên nằm bên ngoài Nam Huân Môn, xây vào thời Hậu Chu, sau được hoàng đế quốc triều tu sửa, đến nay quy mô hoành tráng, ngoài sân bắn cung dài năm trăm trượng, rộng ba trăm trượng ra, trong vườn còn cất trăm đình ngàn tạ, ở giữa có hồ nước, rừng cây rậm rì, hoa thơm khắp lối, lại có một "Dưỡng tượng sở", bên trong nuôi đến mấy chục con voi cùng các loài chim thú quý hiểm khác, bởi vậy nên bình thường công chúa cũng rất hay tới đây thăm thú.

Đến ngày hội bắn, mới sáng tinh mơ công chúa đã lập tức đi Ngọc Tân Viên, lên lầu gác cạnh sân bắn ngồi chờ sau mành che từ sớm. Lát sau, sứ giả Khiết Đan và quan thần tiếp bắn Đại Tống lần lượt vào sân, người dẫn đầu tiếp bắn là Tào Dật, theo sau ông là một thiếu niên đầu chít khăn xanh, bận áo bó nền trắng viền xanh, lưng thắt đai, đi ủng đen, công chúa vừa trông thấy đã lập tức dựa sát lại gần mành châu – đó chính là Tào Bình.

Sứ giả Khiết Đan đầu đội kim quan, đuôi mão dài nhọn, nom như lá sen, mặc áo bào tím bó sát người, đeo đai đính điệp tiệp (*) vàng. Tào Dật thì vấn khăn chít đầu, mặc áo bó, đi giày gấm, thắt đai lưng chỉ bạc. Dung nhan trắng trẻo thanh tú, ánh mắt ôn hòa điềm đạm, làm bộ trang phục bắn cung ông mặc cũng toát lên vẻ tao nhã chẳng khác gì y quan văn sĩ.

(*) Điệp tiệp là những cái móc bằng ngọc, vàng, kim loại gắn trên đai lưng để treo những món đồ nhỏ.

Một lúc sau, hai nhóm nội thị đi trước dẫn đường, Thập Tam Đoàn Luyện Triệu Tông Thực theo sau vào sân, làm chủ trì thay mặt kim thượng, lên đài chủ tọa trong sân quan chiến. Sứ giả và Tào Dật mỗi bên dẫn người hành lễ với đài cao rồi bái lạy lẫn nhau, Thập Tam Đoàn Luyện lệnh nội thần tuyên đọc ý chỉ của hoàng đế, ban cung tên rượu ngự, sứ giả Khiết Đan trụ chân trái, quỳ chân phải, hai tay đỡ vai phải bái tạ. Thần tử hai nước đối ẩm rượu ngự, nhạc lễ vang lên, hơn mười người đội kiểm tên Đại Tống bận áo tím, chít khăn đầu, sắp hàng đứng trước ụ bắn, thực hiện nghi thức rồi chia ra canh giữ hai bên, yên lặng đợi sứ giả bắn tên.

Có mười ụ bắn, mặt bia màu đỏ, vẽ hình sườn mặt đầu hổ bằng mực đen, lấy mắt hổ làm hồng tâm. Sứ giả Khiết Đan theo lệ bắn bằng nỏ. Một gã Khiết Đan đội khăn chít đầu không cánh, mặc áo gấm bước lên mở đầu, đạp mở khung nỏ, múa vòng lắp tên, tự mình ngắm bia bắn trước, thấy ngay ngắn rồi mới nhường lại cho sứ giả. Sứ giả chỉ liếc thoáng qua, lập tức bắn tên, đâm trúng tâm bia.

Người xem vỗ tay khen hay, sau đó cùng nhìn sang Tào Dật, chờ ông ứng đối.

Bản triều bắn tên dùng cung. Tào Dật ung dung tiến lên, giương cung cài tên, cơ hồi không chút ngơi nghỉ, mũi tên lao vút đi như tia chớp, đâm thẳng vào mắt hổ.

Đội kiểm tên đồng thanh reo hò, người Tống vây xem mừng rỡ khôn xiết, tán tụng không ngớt, trống trận rộn tiếng dồn dập, vang dậy hoan hỉ.

Sứ giả Khiết Đan cũng vỗ tay khen ngợi, Tào Dật cúi người cảm tạ, không chút kiêu ngạo. Sau đó, sứ giả tủm tỉm nói với ông điều gì, còn trỏ tay vào tùy tùng sau người, như có vài đề xuất. Khoảng cách quá xa, công chúa không nghe được họ đối thoại đâm ra sốt ruột, bảo ta: "Hoài Cát, huynh xuống dưới nghe xem họ nói gì, lát nữa lên kể lại cho ta biết với."

Ta nhận lời, dặn Trương Thừa Chiếu và chúng thị nữ hầu hạ công chúa cẩn thận rồi xuống lầu đi về phía sân bắn.

Lúc tới được bên sân thì đã có một thanh niên người Khiết Đan bước ra từ đám tùy tùng đi theo sứ hầu, thân hình cao lớn, phong thái hiên ngang, tay xách cánh cung khắc hoa văn, tư thế như chuẩn bị bắn bia. Sứ thần chăm chăm nhìn Tào Dật, như đang đợi câu trả lời của ông, mà Tào Dật thì trầm ngâm, chưa bày tỏ thái độ gì.

Ta hỏi một nội thần đứng xem tình hình hiện giờ, hắn đáp: "Sứ giả Khiết Đan nói hội bắn mỗi năm chỉ diễn ra một lần, đều do đại sứ, phó sứ và quan lại tiếp bắn Đại Tống phát tên, mấy năm nay chỉ có mỗi vài gương mặt thân quen này, chẳng bằng năm nay sửa đổi một chút, nghe nói thiếu niên Đại Tống lắm người thiện xạ, hay là đổi hết sang cho lứa hậu sinh trẻ tuổi đọ sức so tài. Ông ta tự chọn một người trong hậu tộc Khiết Đan, tên là Tiêu Khởi, coi bộ là một tay thần tiễn. Thay người thì cũng chẳng sao, nhưng ông ta lại chỉ đích danh muốn Thập Tam Đoàn Luyện ứng chiến..."

Thập Tam Đoàn Luyện thường ngày vui thú đọc sách, thỉnh thoảng có chơi trò chơi cũng chỉ loanh quanh trong đánh cờ gõ viên, không am hiểu cưỡi ngựa bắn cung. E rằng sứ giả Khiết Đan đã nghe nói từ trước, nói vậy, quá nửa là cố ý gây khó dễ, mưu đồ khiêu khích.

Thấy Tào Dật không tiếp nhận kiến nghị, sứ giả lại thi lễ với Thập Tam Đoàn Luyện trên đài cao, một lần nữa mời cậu xuống sân ứng chiến. Thập Tam Đoàn Luyện cau mày, xem chừng chẳng mấy tình nguyện, vẫn chưa đáp lời. Tiêu Khởi trong sân chờ đến mất kiên nhẫn, dùng tiếng Khiết Đan cao giọng nói câu gì với người nước mình, người Khiết Đan xung quanh nghe rồi cười ồ lên. Người Tống nhìn nhau, đều muốn biết gã nói gì, sau cùng, một tay thông dịch viên Đại Tống nhỏ giọng nói cho mọi người hay: "Hắn nói Thập Tam Đoàn Luyện chẳng những không biết bắn cung mà đến gắng gượng ứng chiến cũng không có gan."

Lời còn chưa dứt, chợt nghe trong đội ngũ tiếp bắn Đại Tống có người cất giọng dõng dạc nói vài câu, cũng dùng tiếng Khiết Đan. Ta cũng như mọi người đều kinh ngạc đưa mắt nhìn kỹ lại, phát hiện ra người lên tiếng là Tào Bình đang từ từ đi vào trong sân.

Thông dịch viên mừng rơn, vội dịch lại cho mọi người: "Tào công tử nói, bữa nay Thập Tam Đoàn Luyện là người chủ trì hội bắn, mặc trường bào ống tay rộng, không tiện bắn cung, mà tài nghệ kỵ xạ của cậu ấy phần nhiều là do Thập Tam Đoàn Luyện chỉ điểm, cũng coi như học trò của Thập Tam Đoàn Luyện, nên xin được ứng chiến thay thầy."

Sứ giả Khiết Đan còn đang do dự, Tào Bình lại nói thêm vài câu, người phiên dịch tiếp tục chuyển ngữ: "Cậu ấy nói Tiêu Khởi là người trong hậu tộc Khiết Đan, mình thì là cháu trai hoàng hậu Đại Tống, đứng ra tiếp bắn hẳn không bôi nhọ sứ giả Khiết Đan. Trận này mà thua thì mời Thập Tam Đoàn Luyện thay y phục ứng chiến sau cũng không muộn."

Đã nói đến thế rồi, sứ giả Khiết Đan cũng không tiện cự tuyệt, bèn gật đầu đồng ý. Tào Bình tiến lên chào Tiêu Khởi, mời gã bắn trước, Tiêu Khởi lại bảo: "Cậu đã biết kỵ xạ, vậy chúng ta từng người cưỡi ngựa bắn liễu đi."

Tào Bình không dị nghị gì, quay đầu lại phân phó người theo hầu chuẩn bị sân bãi, đồng thời dắt hỏa xích mã của mình tới.

Đội kiểm tên nhanh chóng treo hai hàng cành liễu trong sân theo quy tắc, bên trên buộc khăn lụa làm dấu, bên dưới tước một đoạn vỏ cây để lộ sắc trắng, coi là hồng tâm.

Phân thắng thua trong bắn liễu, kết quả chia ra làm ba cấp: phóng ngựa bắn cành liễu bằng tên mũi ngang không lông vũ, bắn đứt cành liễu, lại dùng tay bắt được, thúc ngựa rời đi là đứng nhất; đứt mà không bắt được là hạng hai; bắn trúng cành liễu mà không đứt và bắn không trúng đều xếp chót.

Tào Bình vẫn như cũ mời Tiêu Khởi lên trước. Tiêu Khởi cũng chẳng khách khí, lên ngựa rồi lắp cung ngắm bắn, gần như đồng thời khi tên rời khỏi cung, chân gã thúc vào bụng ngựa, lao vọt đi như chớp giật, vươn tay chụp lấy trước lúc cành liễu rơi xuống đất, bắt được rồi giơ lên cho mọi người xem.

Chuỗi động tác này được hoàn thành vô cùng nhuần nhuyễn lưu loát, xem ra, Tào Bình dẫu có bắt được cành liễu cũng chỉ là hòa nhau, thế nên người Khiết Đan ai nấy đều hí hửng, vẻ mặt người Tống thì hơi nặng nề.

Tào Bình dắt ngựa tiến lên trước, điềm tĩnh giương cung, ngắm đích, bắn tên, thúc ngựa, cuối cùng cũng vững vàng tiếp được cành liễu trong tay, thoạt trông động tác có phần tương tự Tiêu Khởi.

Tiếng người Tống hoan hô như sấm rền, nhao nhao chúc mừng hai cha con Tào thị. Sau cùng, sứ giả cũng đi qua, cười gượng nói với Tào Dật: "Thân thủ Tào công tử thật tốt quá. Ván này Đại Tống thắng rồi."

Tiêu Khởi lấy làm không phục, cao giọng hỏi bằng tiếng Hán: "Chúng tôi đều bắt được cành liễu, chỉ có thể nói là hòa nhau, sao có thể là Đại Tống thắng?"

Sứ thần quay đầu lại, lạnh lùng đáp: "Anh không nhìn ra lúc Tào công tử giương cung là dùng tay trái sao?"

Tiêu Khởi sửng sốt, song vẫn chưa chịu nhận thua, lầu bầu: "Lỡ cậu ta khác mọi người, vốn thuận tay trái thì sao?"

Tào Bình nghe vậy mỉ cười, nói: "Vậy tôi đổi tay phải bắn lại lần nữa nhé?"

Tiêu Khởi khua tay: "Thôi thôi, chúng ta tỷ thí thêm một ván, bịt mắt bắn ụ, được không?"

Bịt mắt bắn ụ thuộc hạng tuyệt kỹ, không phải xạ thủ bậc thần tuyệt không thể làm được. Người Tống nghe vậy đều lo lắng nhìn Tào Bình, cậu cũng chẳng chùn chân, vui vẻ ứng chiến: "Được thôi, ván này so vậy đi."

Lần này, Tiêu Khởi chuẩn bị rất cẩn thận, tỉ mỉ chọn cung tên, đi tới chỗ giương cung, đầu tiên là ngắm thử ba lượt rồi mới bảo người lấy khăn đen bịt hai mắt lại, chậm rãi kéo căng dây cung, mũi tên bắn ra, quả thực bắn trúng tâm bia.

Dường như lại là phe Khiết Đan chiếm được tiên cơ. Tào Bình chậm rãi bước vào chỗ giương cung trong tràng reo hò khen ngợi Tiêu Khởi. Chuyện liên quan đến vinh nhục Đại Tống, người đứng xem tất nhiều đều đổ mồ hôi thay cậu, song vẻ mặt cậu vẫn rất bình tĩnh, nhìn không ra chút nào là khẩn trương.

Xách cung đứng vững, cậu ra hiệu bảo người hầu bịt hai mắt cho mình, đến ngắm thử trước cũng lược bỏ. Người Khiết Đan ồ lên xôn xao, càng nhìn cậu chăm chú hơn, xem cậu phát huy thế nào.

Thoạt tiên cằm hơi ngước lên, mặc cho gió mát quất vào mặt, đoạn cuối khăn bịt mắt sau đầu cậu tung bay phần phật về phía sau, cậu sừng sững đứng nơi trăm con mắt đổ về, trầm mặc bất động hồi lâu. Sau, như nghe được trong tiếng gió có nhịp phách khiến lòng người rộn ràng, khóe miệng cậu dần nhoẻn một nụ cười.

Đương lúc người đứng xem bị nụ cười của cậu làm cho hoang mang, cậu bỗng giơ tay giương cung, kéo căng trong chớp mắt, lấy thế sét đánh không kịp bưng tai phát vụt mũi tên.

Ngoài dự liệu của mọi người, mũi tên ấy cách xa bia bắn, đâm vút lên trời.

Chắc hẳn trong sát na, tất cả mọi người đều tưởng cậu thất thủ. Nhưng, cũng chỉ là trong sát na mà thôi. Trên không trung rất nhanh vọng xuống tiếng một con chim rú lên thảm thiết, tiếp đó, có vật gì rơi vào sân bắn.

Người thuộc đội kiểm tên cấp tốc chạy đi, giơ vật kia lên thật cao – đó là một con nhạn, một con nhạn đang bay bị mũi tên của Tào Bình xé toạc bầu không bắn trúng.

Sau một thoáng im lặng, trong ngoài sân một lần nữa vang rền trống nhạc, ầm ầm mừng rỡ. Vẻ mặt người Khiết Đan còn vương nét khiếp sợ, mà người Tống thì vỗ tay hoan hô, sôi nổi chúc mừng cha con họ Tào. Tào Bình tháo khăn bịt mắt xuống, cười mỉm chắp tay với Tiêu Khởi mặt mũi sa sầm: "Cảm tạ đã nhường."

Tiêu Khởi xì một tiếng, nói: "Lúc trước chúng ta có nói là bắn chim trên trời à?"

"Không sai, là khuyển tử phá luật." Tào Dật mở miệng, nói với với người Khiết Đan, "Vốn là bắn hồng tâm ụ bia, nó lại bắn sang chỗ khác, vậy tức chưa trúng, là thua. Bữa nay bắn cung, Đại Tống Khiết Đan hiện thời mỗi bên thắng một ván, hòa nhau."

Thập Tam Đoàn Luyện chấp nhận cách nói này của ông, cười khen Tiêu Khởi vài câu khách khí rồi thay mặt hoàng đế thưởng cho Tiêu Khởi và Tào Bình chút châu báu trang trí cho đai yên, yên ngựa bạc và dụng cụ bạc vàng. Tiêu Khởi nguôi bớt phần nào giận dữ, cùng Tào Bình tiến lên tạ ơn.

Lúc Tào Bình rời sân thay y phục, nội thần trong Ngọc Tân Viên đều tụ tập hai bên lối đi hoan hô chúc mừng cậu, ta nghe ra trong đó có giọng reo quen thuộc của một cô gái, theo tiếng nhìn qua, thấy công chúa đứng ở nơi ít người đằng trước, thân mặc áo bào của tiểu hoàng môn, mái tóc dài cũng buộc kín trong khăn chít đầu, nom giống một cậu nội thị mặt mày thanh tú.

Ta lập tức rảo bước tới cạnh nàng, khẽ kéo ống tay áo nàng. Nàng quay đầu liếc ta một cái, nụ cười không giảm, chẳng mảy may có ý rời đi, cũng không ra hiệu bày tỏ gì nhiều với ta, quay đầu lại nhìn Tào Bình đang từ từ đi về phía mình như trước.

Dung mạo Tào Bình khá giống phụ thân, nhưng trên trán lại nhiều thêm mấy phần anh khí tràn trề chỉ có ở trai trẻ. Lúc này cậu đang mỉm cười đi về phía trước, cử chỉ nhàn hạ phóng khoáng, cũng không làm mất khí độ đoan trang tao nhã của công tử thế gia, song lúc đi ngang qua bên cạnh công chúa lại bỗng giở tính trẻ con, nghiêng đầu trợn mắt le lưỡi với nàng.

Công chúa cũng không chịu kém cạnh, lập tức phồng má, ngón tay đẩy chóp mũi lên, đáp trả cậu một cái mũi heo.

Sau đó, hai người nhìn nhau cười. Giữa chừng Tào Bình không hề dừng bước, nhướng mày với công chúa xong, đi thẳng vào gác điện thay y phục. Công chúa nhìn theo cậu, nét mặt còn nguyên vẻ vui mừng.

Theo lệ, sau bắn cung là thưởng cỗ rượu trong Ngọc Tân Viên, Thập Tam Đoàn Luyện và nhóm Tào Dật tiếp khách. Công chúa nói buổi chiều muốn đi Dưỡng tượng sở xem chim thú quý hiếm, bèn ở lại trên lầu một mình ăn trưa. Đồ ăn Ngự thiện cục dâng lên nàng chỉ nếm hai miếng liền chê khó ăn, nằng nặc đòi ta phải tự mình đến phòng bếp phân phó đầu bếp làm món nàng thích. Ta đành phải tuân mệnh rời đi, trước khi đi liếc thấy nàng hãy còn đang mặc áo bào tiểu hoàng môn trên người, chút nghi ngờ vụt chớp, nhưng chung quy vẫn không hỏi ra, chỉ bảo nàng: "Công chúa, nên đổi y phục đi thôi."

Nàng gật đầu ưng thuận: "Đổi ngay đây... Huynh đi mau đi."

Dự cảm của ta đã đúng: Khi ta trở về, công chúa đã không còn trên lầu.

Ta hỏi thị nữ trong gác, họ lúng túng nói công chúa đã dẫn Trương Thừa Chiếu ra ngoài, mặt khác không cho bất kỳ kẻ nào khác theo.

Ta ra ngoài tìm, vừa xuống tới dưới lầu thì thấy Trương Thừa Chiếu ngâm nga quay về. Chạm mặt ta, hắn cả kinh, cúi đầu muốn chạy, bị ta cao giọng quát bắt đứng lại.

Ta hỏi hắn công chúa đang ở đâu. Đại khái là thần sắc giọng điệu ta nghiêm khắc quá chừng, ánh mắt hắn thậm chí còn lấp lóe vẻ hoảng sợ, không lần lữa bao lâu đã khai ra vị trí hiện tại của công chúa.

"Ở cùng Tào công tử?" Ta hỏi.

Hắn co quắp cúi đầu. Ta đẩy hắn ra, sải bước hướng tới chỗ trong lời hắn.


4. Mai đỏ

Bên bờ sông Mẫn, bướm mai dập dờn, thiếu niên cởi tấm áo choàng lông cò trắng xuống, khoác lên vai thiếu nữ.

"Đừng để bị lạnh." Cậu cười nói.

Bên trong cậu mặc chiếc áo bào kép tay rộng màu đỏ hoa mai, viền áo bằng gấm sắc son thiên thảo, lúc cử động, trong cổ áo, dưới ống tay lấp ló lớp áo đơn bằng sa trắng. Sắc điệu vốn diễm lệ, song dung nhan cậu ngời ngời xán lạn, thần thái cởi mở phóng khoáng, tưởng chừng như ẩn chứa ánh sáng nhật nguyệt, hòa quyện cùng màu sắc rực rỡ này ấy nhưng tuyệt không khiến người ta có cảm giác lẫn mùi son phấn bên trong.

Thiếu nữ nghiêng đầu cười đáp ứng, choàng tấm áo lông cò đan dệt tinh vi kia lên, toàn thân trắng muốt thanh nhã, chỉ duy có hai gò má là hây hây bừng đỏ, như mặc gió xuân thổi sắc hồng muôn cánh mai chung quanh nhuốm lên gương mặt.

Ấy là cảnh tượng ta trông thấy lúc tìm được công chúa và Tào Bình bên bờ sông Mẫn trong Ngọc Tân Viên.

Họ đưa lưng về phía ta, vai kề vai ngồi trên lối gỗ con đê, trước mặt là dòng nước xanh biếc, sau lưng là mai đỏ vạn cội.

Mai đỏ hé nhụy vốn là cảnh sắc vô song chốn Ngọc Tân đầu xuân. Loài mai này trong đỏ có tím, hoa dày như hạnh, hương thơm cũng từa tựa mùi hạnh, nguyên có xuất xứ từ Cô Tô, sau được Án Thù mang giống lên kinh thành trồng, nay trong đô chỉ có ở tất thảy ba nơi, cây trồng trong Ngọc Tân Viên được người phương Nam chăm sóc nên nở đẹp nhất. Tiết trời năm nay ấm lên quá sớm, vừa chớm tháng Giêng, hai bên bờ sông sắc xuân đã dập dìu, mây vờn bóng liễu non vàng, gió lướt mai đỏ tuyết trắng, cộng thêm đôi trai gái thanh tân như ngọc tạc phấn điểm đặt mình vào trong, cảnh tượng càng thêm tươi đẹp tựa một bức đan thanh kỳ công.

Lo lắng và chút tức giận vô hình trước đó lúc này lẳng lặng phai nhạt, ta dừng bước, lặng lẽ đứng dưới bóng cây cách họ không xa phía sau, cũng không lên tiếng quấy rầy họ.

Họ đang chuyên tâm chuyện trò vui vẻ, hoàn toàn không hay biết ta đã đến.

Tào Bình đại khái cũng chạy từ yến hội ra, bưng theo một mâm thức ăn, giờ đang đặt bên người. Cậu lựa một khúc sườn nướng đưa cho công chúa: "Công chúa nếm thử món này đi. Đây là thịt tỳ ly Khiết Đan, rất hiếm thấy trong kinh đó."

Công chúa không đón lấy ngay mà cúi đầu ngửi ngửi trước, sau đó nói: "Mùi hơi gây."

"Tỳ ly này nuôi bằng sữa dê." Tào Bình giải thích, lại khuyên nàng, "Thực ra mùi gây không nặng lắm đâu, công chúa nếm thử một miếng đi, béo ngậy thơm lắm."

Cậu đưa khúc sườn tới bên miệng công chúa, công chúa cau mày cắn một miếng, vừa nhai mấy cái đã rộ ngay nụ cười: "Thơm thật đó."

Bèn đón lấy, nhanh chóng gặm sạch thịt trên khúc xương. Tào Bình lại đưa cho nàng một nắm cơm: "Đây là cơm nấu bằng tủy cừu trắng và gạo nếp Ngự thiện cục làm theo kiểu Khiết Đan."

Công chúa nói nắm cơm to quá, Tào Bình bèn bẻ ra chia với nàng, đợi công chúa ăn xong, lại lấy một thức gì đó nom như thịt khô chìa tới: "Đây là thịt ngỗng trời khô người Khiết Đan săn bằng hải đông thanh (*), cũng giống như thịt tỳ ly, là đồ sứ giả Khiết Đan mang đến cống nạp chuyến này."

(*) Loài chim ưng được xưng là "thần của muôn ưng" ở vùng Mạc Bắc Trung Quốc.

Công chúa lại bắt đầu thưởng thức thịt ngỗng trời khô. Giữa chừng Tào Bình rót một chén sữa dê cho nàng, nàng không còn tay để tiếp, bèn dứt khoát cúi đầu uống cái chén trong tay Tào Bình.

Uống xong lại tập trung vào nhai gặm, dáng vẻ hết sức say sưa nồng nhiệt. Tào Bình ngắm nàng một lúc, chợt quay đầu về phía khói sóng biếc xanh bật cười.

Công chúa nuốt miếng ăn trong miệng, lấy làm ngạc nhiên: "Sao thế?"

Tào Bình cười nói: "Tối hôm trước thần mời công chúa ăn bánh, công chúa không chịu ăn, thần còn tưởng công chúa không ham thú ăn uống..."

Công chúa xấu hổ đỏ bừng cả tai, bỏ nửa miếng thịt ngỗng trời còn lại xuống, nhỏ giọng: "Ta không ăn nữa."

"Công chúa đừng để bụng, không phải thần cười người đâu." Tào Bình thu lại nụ cười, ôn hòa giải thích với nàng, "Thần thấy công chúa thích ăn đồ thần mang đến cho người nên rất vui... Có lần thần mang đồ ăn ngon về cho đám thị nữ trong nhà, họ rõ ràng rất thích mà trước mặt thần lại cứ giả bộ sức ăn như mèo, chỉ nhấm nhấm cắn một hai xíu, thần nhìn mà phát ghét lên được."

Cậu lại gắp một miếng cá cho công chúa, công chúa vẫn không chịu tiếp, cậu bèn đút miếng cá vào miệng mình, nhai nhai hai cái rồi nuốt xuống, lại nhặt vài món khác bỏ cả miếng lớn vào miệng ăn, tiếp đó nói với công chúa: "Xem này, thần đã ăn nhiều hơn công chúa rồi, nếu thần còn cười công chúa thì công chúa cứ cười ngược lại thần là được."

Công chúa nghe vậy nhoẻn cười, bấy giờ mới đón lấy miếng cá cậu một lần nữa đưa tới.

Họ tiếp tục thưởng thức mỹ thực Khiết Đan, thi thoảng lại cười đùa dăm câu, tiếng cười rộ lên kinh động đến đám chim trĩ gà lôi trắng phau sống ven sông, khiến chúng nhao nhao ngoái đầu ngó họ, rồi túm năm tụm ba dang cánh bay lên, cảnh tượng làm họ nhìn mà thích thú, càng thêm tíu tít nói cười liên miên.

Ta nhếch nhếch khóe miệng, cũng muốn cười theo họ, song chung quy chẳng thể cười lên được.

Trước mắt rõ ràng là cả vườn cảnh xuân, ta lại như cô độc lạc giữa gió xuân, mặc nó thổi đáy lòng hoang hoải.

Cuối cùng, ta vẫn không tiến lên quấy rầy công chúa mà yên lặng lui về con đường trước vườn mai, thấy có người tới thì lại gần tán gẫu, nương đó dắt hướng họ rời đi để họ khỏi phát hiện ra người đang ngồi bên đê là Tào Bình và công chúa.

Qua chừng một canh giờ, họ mới đứng dậy rời đi. Ta tránh vào nơi kín đáo, dõi mắt nhìn họ chia tay nhau trở về, sau đó chậm rãi quay lại lầu gác công chúa ngự.

"Hoài Cát, huynh vừa đi đâu vậy?" Nhác thấy ta, công chúa hỏi liền, trong giọng nói nhút nhát mang vẻ ân cần, cũng bao hàm chút thấp thỏm không yên, như sợ ta dò hỏi hay trách cứ. Chắc là Trương Thừa Chiếu đã nói gì đó với nàng.

Giờ nàng như đã coi ta thành người nhà giám thị nàng. Ý nghĩ này khiến lòng ta đượm vị đắng chát, nhưng ta vẫn cố gắng không để nó hiện lên thành sắc thành hình.

"Thần vào vườn tìm công chúa, nhưng không tìm thấy, đi mệt bèn vào đình trong vườn lê nghỉ chân chốc lát, bất giác ngủ mất, nãy mới tỉnh dậy, nghĩ hẳn công chúa đã về rồi nên lập tức quay lại đây." Ta đáp lại nàng bằng một lời nói dối không có ác ý.

"À," Công chúa thở phào một hơi, rồi ấp úng biện minh: "Ta đi xem voi... Một mình... Xem xong voi thì đi xem con nghê nước Thiên Trúc... Còn có tê giác... Với lại dê thần..."

Nàng tựa hồ không quen nói dối trước mặt ta, giọng càng nói càng nhỏ, mặt cũng không cầm được đỏ lên.

Ta mỉm cười với nàng, dùng vẻ mặt dịu dàng trấn an nàng: "Phải, sao thần lại không nghĩ ra nhỉ? Vốn công chúa đã nói từ trước là muốn đi xem voi rồi mà."


5. Quất xuân

Tuy Trương Thừa Chiếu sống chết không chịu thừa nhận nhưng ta vẫn có thể khẳng định để công chúa mặc y phục tiểu hoàng môn chạy ra ngoài là ý tưởng của hắn.

Hắn nhanh chóng được công chúa tín nhiệm nhờ vào khả năng nhìn mặt đoán ý, lựa lời xúi giục công chúa thích sao làm vậy. Ta từng kéo riêng hắn ra trách cứ, không tự chủ được càng lúc càng nặng giọng, sau cùng nghe thấy hắn buông một tiếng thở dài: "Khi còn bé bị đám nội thị hoàng môn cao hơn tôi một cấp mắng nhiếc, tôi mới ý thức được thế nào là quan hơn một bậc đè chết người. Vốn tưởng chúng ta là anh em, cậu không giống họ..."

Ta ngẩn người, dần nhớ lại chuyện hắn bảo vệ ta bận ta bị ức hiếp hồi còn nhỏ, liền im lặng.

Hắn lại nhắc đến công chúa: "Công chúa mặc y phục tiểu hoàng môn ra ngoài chơi bất quá chỉ là chuyện cỏn con ngẫu nhiên mới diễn ra một lần. Hơn nữa còn hành sự cẩn thận, không ai phát hiện ra. Dẫu có bị phát hiện thì công chúa cũng chẳng chạy ra ngoài cung, cùng lắm chỉ bị quan gia nương nương nói dăm lời, có thể gây nên phiền toái bao lớn chứ? Quan gia thương công chúa như vậy, chớ nói công chúa chỉ đi loanh quanh trong cung viện, người có nhất thời nổi hứng, phóng hỏa đốt cung, quan gia ắt cũng chẳng thực sự trách phạt người... Ấy gọi là tình ruột thịt đó! Trương quý phi được sủng ái ư? Nhưng hành sự chỉ cần xảy ra chút ít sai lầm thôi là quan gia mặt mày sa sầm, bắt bà ta quỳ xuống tạ tội liền. Ngẫm lại công chúa mà xem, cậu có từng thấy quan gia thật sự nổi giận với người bao giờ chưa? Công chúa bị thương cái ngón út thôi quan gia cũng xót ruột cả nửa ngày kia mà..."

Ta không muốn nghe hắn lý lẽ chày cối, ngắt lời: "Chuyện không đơn giản chỉ là công chúa chạy loanh quanh trong cung như cậu nói. Cậu để công chúa cải trang đi gặp người ngoài như thế, lỡ bị ai biết, nhất là đài gián, sẽ đem lại phiền phức cỡ nào cho người và quan gia đây? Huống hồ, công chúa còn là nữ tử đã đính hôn..."

"Ôi, đã nói bao lần rồi, có phải tôi bắt công chúa cải trang đâu." Trương Thừa Chiếu rất là cẩn thận tiếp tục lảng tránh tội danh xúi giục công chúa, "Cậu cũng đâu phải không biết, công chúa mà muốn làm gì thì mười con trâu kéo cũng chẳng lại. Hơn nữa, công chúa chỉ muốn gặp vài người thuận mắt trước khi xuất giá thôi mà, việc gì cậu cứ phải ngăn cản mãi thế? Ngẫm lại vị phò mã của chúng ta đi, quả đúng là khó coi còn gì, công chúa xuất giá rồi nhất định sẽ cười không nổi, sao không cho người sống cuộc sống hiện giờ thích chí hơn?"

Câu cuối cùng làm ta cứng họng hồi lâu, mãi sau mới nói: "Công chúa quá thẳng tính, tiếp xúc nhiều với Tào công tử rồi chỉ e chuyện về sau khó mà xử lý được."

Trương Thừa Chiếu khoát tay: "Không sao đâu, hai đứa trẻ gặp nhau giữa thanh thiên bạch nhật thì có thể gây ra được đại loạn gì? Chẳng lẽ ý cậu là họ có bản lĩnh bỏ trốn?" Thấy ta không đáp, hắn chợt nhếch một nụ cười khác thường, hạ giọng xuống thật thấp, cúi người nghiêng đầu nhìn ta chòng chọc, hỏi dò: "Tôi biết rồi, cậu hầu hạ công chúa nhiều năm, bỗng thấy công chúa gần gũi với người khác nên trong lòng sinh chút khó chịu chứ gì..."

Ta đứng bật dậy, mím chặt môi, lạnh lùng lườm hắn. Hắn bị dọa cho im bặt, cúi đầu không dám tiếp tục nhìn ta.

Đã ghét Trương Thừa Chiếu suy đoán mập mờ, lại hận mình nghe câu này phản ứng quá dữ dội, ta phất tay áo bỏ đi, không sao nén được muôn nỗi ưu tư cuồn cuộn trong lồng ngực, rảo bước đi lung tung không mục đích trong cung, tưởng như muốn cất bước chạy điên cuồng.

Sau, hồi thần lại được là vì nghe thấy tiếng công chúa: "Hoài Cát, Hoài Cát, sao huynh lại ở đây?"

Câu hỏi của nàng làm mớ suy nghĩ đang trong trạng thái vẩn đục của ta lắng lại. Ta nhận ra mình đang đứng trước Phúc Ninh Điện, công chúa thì đi về phía ta, trên mặt treo nụ cười trong vắt, không đợi ta trả lời đã chìa cho ta xem chiếc tráp con tinh xảo nàng cầm trong tay: "Huynh đoán xem đây là cái gì?"

Ta hít lấy một hơi thật sâu, cố sức điều chỉnh sao cho vẻ mặt mình không quá cứng nhắc rồi nhẹ giọng đáp: "Xem chừng trong tráp đựng một thỏi mực cổ."

"Đúng vậy! Là mực Lý Siêu cha vừa ban cho ta đó!" Công chúa cười cười sáp lại gần ta, "Chìa tay ra đây."

Ta không hiểu nàng định làm gì, nhưng vẫn nghe lời nàng vươn tay ra.

Nàng đặt thỏi mực cổ Nam Đường vào lòng bàn tay ta, nói: "Thưởng cho huynh đấy."

Ta không khỏi cả kinh. Mực cổ quý giá như vậy trong cung chẳng còn dự trữ bao nhiêu, công chúa ắt hẳn đã phải hao hết miệng lưỡi mới có thể xin được kim thượng đồng ý ban cho mình, vậy mà nàng lại tùy tiện thưởng lại cho ta thế này.

Động não đôi chút, ta đoán ra được mấu chốt trong đây: "Công chúa lại muốn thần làm gì phải không?"

"Không hề nhé, ta hoàn toàn không muốn huynh làm gì cho ta hết!" Công chúa tức khắc phủ nhận, song lời tiếp theo nàng mở miệng đã khiến ta biết rõ mình đoán không sai.

"Cơ mà, ca ca," Nàng mỉm cười dè dặt, nói với ta bằng giọng thương lượng, "Hôm lập xuân, ta muốn đi Tiên Nông Đàn xem quất xuân..."

"Quất xuân" vốn là một nghi thức cổ xưa, đắp tượng trâu đất để xua khí lạnh, tỏ ý tiễn giá rét đón hơi ấm, khuyến khích canh nông cho một năm được mùa. Đây là nghi thức long trọng nhất của quốc triều. Một ngày trước lập xuân, phủ Khai Phong sẽ dâng tượng trâu xuân bằng đất sét và phu phen, dụng cụ cày cấy vào cung, trong cung nghênh đón bằng trống nhạc. Ngày lập xuân, tể chấp dẫn quan lại, thân vương, hoàng thân quốc thích vào chúc mừng, tụ tập trước Tiên Nông Đàn ngoài Quan Giá Điện, lần lượt từng người cầm roi lụa màu quất trâu xuân ba lượt tỏ ý khuyến khích canh nông, tự cổ gọi là "quất xuân".

Hôm ấy, ngoại thích có quan hàm cũng sẽ tham gia nghi thức, khẳng định là công chúa muốn mượn cơ hội này gặp lại Tào Bình. Đó là đại điển nam tử tụ họp, cung quyến không thể tham gia, công chúa nói vậy quá nửa là muốn xin ta cho phép nàng cải trang một lần nữa đi xem.

Nàng năn nỉ ta suốt mấy ngày, thành khẩn thề thốt đảm bảo tuyệt đối sẽ không để người khác phát hiện, "Ngày đó ta có thể mặc áo màu đeo mặt nạ quỷ như các tiểu hoàng môn khác mà, có mặt nạ che mặt thì ai biết được ta là công chúa đâu?"

Sau đó, ta hỏi nàng: "Công chúa cần gì phải xin thần cho phép? Như lần trước ấy, lẳng lặng gạt thần ra ngoài, thần cũng có cách nào can thiệp được đâu."

"Thì... Ta sẽ không như thế nữa mà." Nàng hơi xấu hổ cúi đầu, nói: "Ta sợ huynh biết sẽ không vui..."

Chớp mắt cảm động khi nghe lời này đã hóa thành lý do ta chấp thuận thỉnh cầu của nàng.

Hôm ấy, nàng quả thực mặc áo bông ngũ sắc, đeo mặt nạ quỷ toét miệng cười to, cải trang thành tiểu hoàng môn đón trâu đất đi xem nghi thức quất xuân. Ta có thể đứng ngoài xem như mọi người, song từ đầu đến cuối đều phải cố hết sức đi theo nàng.

Có điều, nàng không gặp được Tào Bình như mong muốn. Sau một hồi lâu nàng nhìn quanh nhìn quất, ta đi qua nói cho nàng biết tin tức vừa nghe ngóng được: "Hôm nay sứ giả Khiết Đan rời kinh về nước, Tào công tử theo quốc cữu ra ngoài thành tiễn, không tham gia lễ quất xuân."

Tuy cách một lớp mặt nạ, song ta vẫn cảm nhận được nàng thất vọng nặng nề.

Nàng đứng đó ngẩn ngơ chốc lát, lẩm bẩm: "Ta có nói là muốn gặp huynh ấy đâu." Sau đó tiếp tục đưa mắt xem mọi người quất trâu xuân.

Trâu xuân bằng đất sét cao bốn thước, dài tám thước, tượng trưng cho bốn mùa tám tiết; đuôi dài một thước hai tấc, tượng trưng cho mười hai tháng. Trên thân trâu còn vẽ hoa văn biểu đồ thời giờ bốn mùa tám tiết, hai bên trái phải gắn cày bừa làm nông. Roi màu quất xuân còn được gọi là roi xuân, dùng tơ ngũ sắc quấn thành, mỗi vị quan cầm hay cái, lần lượt quất trâu xuân theo thứ tự phẩm cấp rồi mới tề tụ cúng tế dâng hương, nghi thức sau cùng là đập nát trâu xuân, mọi người tranh đoạt trâu đất, giành được đầu trâu được coi là điềm đại cát, ấy gọi là "đoạt xuân".

Xem lễ lúc này đa số đều là người có tuổi có địa vị, bởi vậy nên phần đoạt xuân sau đó chỉ toàn con cháu quan lại và hoàng thân quốc thích còn trẻ tham gia, người đứng tuổi chỉ đứng xem mà thôi.

Tới lễ đoạt xuân, dưới ban tế trâu xuân đã tụ tập đông đảo những thanh niên nóng lòng muốn thử sức, ai nấy đều lom lom nhìn trâu xuân xoa tay, chỉ đợi chủ trì phát lệnh. Đúng lúc ấy, có một cậu trai mười bảy, mười tám, bận áo đơn màu mai đỏ thình lình bật sức, liều mình chen từ phía sau đoàn người lên hàng nhất sát dưới ban tế. Hành động đột ngột này làm dậy lên cơn bất mãn của những người bị chen ra, họ cùng quay sang nhốn nháo xô đẩy hắn, mà hắn thì dang hai tay gắng gượng chống đỡ, quyết không chịu nhường, mặt đỏ gay, thở phì phò, hai mắt chòng chọc nhìn thẳng vào đầu trâu.

Ta trông rõ được khuôn mặt hắn rồi, tức thì thầm cảm thấy không ổn – đó là phò mã Lý Vĩ. Đã lâu không gặp, ngoại hình hắn không có thay đổi gì quá lớn, chỉ cao hơn một chút, cũng mập lên một chút, nom càng thêm chắc nịch, có đám con cháu tôn thất ngoại thích chung quanh làm nền, không khỏi toát lên vài phần thô bạo.

Đang định khuyên công chúa trở về thì nàng cũng đã để ý tới Lý Vĩ. Màu sắc chiếc áo bào Lý Vĩ bận trên người kích thích nàng phẫn nộ: "Người xấu xí da đen thế kia mà cũng dám mặc màu mai đỏ, đúng là cái thứ bắt chước mù quáng!"

Ta thầm tức cười. Nghi thức quất xuân khác với những đại điển bình thường, bầu không khí rất thoải mái, không yêu cầu tất thảy quan lại đều phải mặc triều phục, con cháu hoàng thân quốc thích trẻ tuổi có thể chọn mặc xiêm y tươi sáng. Có lẽ Lý Vĩ chỉ trùng hợp chọn màu đỏ hoa mai mà thôi chứ hôm hội bắn hắn nào đâu có mặt, chưa chắc đã là bắt chước Tào Bình.

Nhưng nói đi cũng phải nói lại, hiệu quả hắn mặc màu áo này quả tình chênh lệch Tào công tử quá xa, công chúa vì thế mà giận chó đánh mèo cũng là điều dễ hiểu.

Quan sát Lý Vĩ một lúc, công chúa bỗng lẩm bẩm: "Tên này trông quen quen, ta từng gặp ở đâu rồi thì phải..."

Sợ nàng nhận ra đây chính là "con thỏ ngốc" từng để lại ấn tượng không tốt cho nàng, ta lập tức bảo nàng: "Công chúa, không còn sớm nữa, chúng ta về thôi, nếu không Miêu nương tử lại đòi đi khắp nơi tìm người."

Đôi mắt trong suốt để lộ dưới tấm mặt nạ của nàng lúc này đang nhìn chằm chằm vào Lý Vĩ, mang chút vẻ nghiền ngẫm mà suy tư, nàng từ chối lời đề nghị của ta: "Đợi đã, ta muốn xem thêm chốc nữa."

Ta không thể làm gì khác, đành cầu mong Lý Vĩ sẽ không để lộ thân phận trong hoạt động sau đó.

Thế nhưng, biểu hiện của hắn thực sự quá nổi bật. Trâu xuân bị đập nát rồi, chủ trì vừa phát lệnh, hắn đã xông thẳng về phía đầu trâu, chặn trái húc phải, xô ngã mấy người, cuối cùng cũng tiếp cận được đầu trâu, cũng chẳng suy nghĩ gì nhiều mà vọt người bổ nhào lên trước, đè đầu trâu xuống dưới thân, vòng tay ôm chặt. Kể từ đó, những người đến sau bất kể ép buộc lôi kéo thế nào hắn cũng quyết không buông tay, để thủ vững chiến lợi phẩm, mặc cho người khác giẫm đạp lên tay áo vạt áo ra sao, hắn cũng không chịu đứng lên lúc này.

Trước đó, đầu trâu đã bị một tay nhanh nhẹn chạm tới, vốn đã cầm được cả hai tay rồi, không ngờ lại bị hắn bổ nhào một cú ngay mặt như thế, người nọ bị đánh bật ngã lộn ra sau, đứng lên rồi, mặt mũi sửng cồ như muốn chửi mắng.

Ta nhìn kỹ, nhận ra người này là Trương Hi Phủ, em họ Trương quý phi, con trai Trương Nghiêu Tá.

Chính lúc ấy Lý Vĩ ngẩng đầu lên, Trương Hi Phủ vừa thấy là hắn, chợt nhoẻn cười: "Hóa ra là Lý phò mã. Bảo sao, đã xuất hết sức in vàng mã ra thì chúng tôi sao dám tranh với ngài?"

Câu này nói lên rất dõng dạc, người trên ban tế nghe thấy cười ầm lên, đều từ bỏ tranh đầu trâu với Lý Vĩ, ai nấy nhặt lấy một miếng đất sét trâu xuân rồi sôi nổi tản đi.

Lý Vĩ thấy xung quanh không còn ai, bấy giờ mới từ từ đứng dậy, vẫn ôm khư khư cái đầu trâu, nơm nớp nhìn bốn phía như sợ hãy còn người đến tranh cướp với mình.

Tệ hơn là dáng vẻ hắn bây giờ quả thật thảm không nỡ nhìn: Áo bào màu mai đỏ bị đạp cho nhăn nhúm, in đầy dấu chân; khăn chít đầu bị đụng rơi xuống đất, đã sớm bị mọi người giẫm bẹp; tóc tai bù xù, mặt mũi lấm lem bùn đất, trán còn có vết va chạm chảy máu...

Ta quay sang công chúa, không biết nên nói gì với nàng. Mà trong suốt khoảng thời gian đó, nàng vẫn đứng im quan sát như một bức tượng băng rét buốt, đến con ngươi cũng không chuyển động lấy mảy may.

Lát sau, nàng mới từ từ cất lời: "Ta nhớ ra rồi, hắn là con thỏ ngốc."

Ta lay lay vai nàng, muốn đưa nàng đi: "Công chúa..."

Nàng khẽ giãy ra, hỏi ta: "Hắn chính là Lý Vĩ?"

Ta không cách nào giấu giếm nàng được nữa, buộc lòng gật đầu.

Nàng cúi đầu, hai giọt nước mắt tuôn ra, lướt qua gương mặt hớn hở rực rỡ sắc màu của chiếc mặt nạ, không tiếng động rơi xuống đất.


6. Phò mã

"Thiên hạ có biết bao nhiêu đấng nam nhi tốt đẹp mà sao cha lại cứ phải chọn phò mã cho con là một kẻ ngu đần tối dạ chứ?"

Công chúa khóc nức nở trước mặt Miêu thục nghi.

Miêu thục nghi nhất thời luống cuống, không kịp hỏi kỹ nàng thế nào mà lại trông thấy Lý Vĩ, cũng chẳng còn lòng dạ mà trách phạt đám tùy tùng bọn ta, sững người trong thoáng chốc rồi ôm chầm lấy con gái, rơi lệ cùng nàng, oán giận than: "Ai bảo cha con coi con như châu báu đây? Lúc Chương Ý thái hậu còn sống, ngài chưa từng gọi bà một tiếng mẫu thân, sau biết chân tướng rồi thì cũng đã muộn, âm dương đôi ngả cách biệt trời đất, ngài không sao báo hiếu thái hậu được nữa, đành phải dốc cạn khả năng bồi thường cho nhà họ cậu. Quan to tước quý đã phong, vàng bạc châu báu cũng thưởng, còn thấy chưa đủ, bảo bối quý giá nhất ngài có thể cho cũng chỉ còn có con mà thôi. Ngài muốn mượn cái danh con gái thiên tử của con để hạ giáng, biến nhà cậu thành gia tộc sang quý nhất thiên hạ."

"Nếu con thật là châu báu thì cũng đành thôi, mặc cha tặng ai cũng không oán hờn, bởi chẳng có mắt cũng chẳng có tâm, không phân biệt được xấu đẹp, cũng không biết thế nào là tài đức ngu muội." Công chúa thút thít: "Nhưng ai bảo con sinh ra lại là con người có tri có giác... Con muốn đi nói cho cha biết, con không thích con thỏ ngốc Lý Vĩ, không muốn hắn làm phò mã."

Miêu thục nghi xua tay khuyên công chúa: "Chớ đi tranh cãi với cha con, vô dụng thôi, chuyện này đã quyết định bao năm nay rồi, khi đó còn chẳng ai lay chuyển được ngài huống chi là hiện tại. Con mà đi gào khóc cự tuyệt hôn sự với ngài, ắt ngài sẽ cảm thấy con khinh thường nhà họ Lý, đại bất kính với Chương Ý thái hậu. Mấy ngày nay trong triều lắm sự vụ, cha con vốn đã phiền lòng, con tuyệt đối không thể đề cập đến việc này với ngài, chỉ tổ chọc ngài càng bực mình thêm thôi."

"Vậy chẳng phải là hết cách sao?" Công chúa vùi mình vào lòng mẹ, nước mắt giàn giụa thấm đẫm một mảng vạt áo Miêu thục nghi, "Con không muốn nửa đời sau ngày nào cũng phải nhìn khuôn mặt đen đúa kia đâu."

Miêu thục nghi thở dài rầu rĩ, vừa lấy khăn lụa lau nước mắt cho công chúa, vừa dịu dàng an ủi nàng: "Còn sáu năm nữa con mới đến hai mươi, chờ xem đã, biết đâu trong khoảng thời gian này lại xảy ra chuyện gì giúp cho con khỏi phải lấy nó, cũng chưa biết chừng."

Đúng lúc này, đề cử quan Vương Vụ Tư tiến vào điện, cuộc nói chuyện giữa hai người tạm thời gián đoạn.

"Lý đô úy sai người mang lễ vật tới tặng công chúa ạ." Vương Vụ Tư cúi người bẩm báo.

Tiểu hoàng môn đi đằng sau y bưng cao một cái khay bước lên hai bước, trên khay đắp một tấm khăn gấm, bên trong nhô lên một vật thể cao ngất, trông hình dáng đó, ta mơ hồ đoán được vật ấy là cái gì.

Được Miêu thục nghi cho phép, Vương Vụ Tư vén khăn gấm ra, một chiếc đầu trâu bằng đất sét hiện ra trước mắt mọi người.

"Đây là đầu trâu Lý đô úy giành được ở lễ đoạt xuân hôm nay, đặc biệt sai người mang vào trong cung, chúc công chúa bình an mạnh khỏe, vạn sự như ý."

Công chúa và Miêu thục nghi nhìn nhau không nói gì. Lát sau, công chúa bảo Vương Vụ Tư: "Ném đi."

Vương Vụ Tư sửng sốt, không biết phải ứng đối ra sao.

Công chúa lặp lại, gằn từng tiếng: "Ném cái đầu trâu này đi."

Vương Vụ Tư cúi đầu thưa dạ, song vẫn không tuân mệnh hành động.

Lúc này, Miêu thục nghi mở lời: "Lý Vĩ tặng vật này tới cũng là xuất phát từ hảo tâm, công chúa không thích cũng không nên chà đạp, chẳng bằng biếu lại cho quan gia, ngài nhất định sẽ rất vui lòng nhận."

Vì vậy, đầu trâu cứ thế được giải quyết. Qua biểu hiện của kim thượng lần công chúa gặp phụ thân kế tiếp, có thể thấy Miêu thục nghi đoán không sai, lễ vật này quả thực rất được lòng ngài, không ngớt khen Lý Vĩ có lòng, cũng khen công chúa hiểu chuyện, thời thời khắc khắc đều biết nghĩ đến cha.

Công chúa nghe lời mẫu thân, tạm thời không thể hiện sự bất mãn của bản thân với kim thượng trong chuyện hôn sự, song vì thế mà sa sút mất mấy ngày, hoàn toàn không tìm lại được trạng thái hoạt bát trước đây, thường ngồi một mình thẫn thờ, có lúc còn lặng yên gạt lệ, chẳng biết là do nghĩ đến tên phò mã nàng ghét hay là bởi vận mệnh đã định nàng không có duyên với Tào Bình.

Người làm nàng cười trở lại là Trương Thừa Chiếu.

Ngày ấy ta thấy công chúa vẫn ủ ê như trước, bèn kiến nghị nàng ra vườn cây trong gác ngắm mai vàng trăm cánh mới nở. Ta khuyên nhủ mấy lượt, nàng mới chịu uể oải đứng dậy, Trương Thừa Chiếu vội đi trước dẫn đường, cùng ta theo nàng ra ngoài.

Mai vàng trăm cánh còn được gọi là mai hoàng hương hoặc thiên diệp hương, hoa nhỏ cánh dày, tâm hoa vàng nhạt, cánh hoa đếm được phải đến hai mươi có dư, tuy không sánh kịp mai đỏ diễm lệ nhưng lại có ưu điểm riêng là có mùi thơm, nương gió hiu hiu lùa vào trong gác, thấm tận ruột gan.

Hương thơm này tựa hồ vực dậy được cho công chúa chút ít tinh thần, nàng đứng dưới nhà hông cung điện, tựa người vào cột trụ hàng hiên, dáng vẻ tĩnh lặng, mắt hơi cụp xuống, xem thị nữ Gia Khánh Tử và Vận Quả Nhi cắt hoa cắm bình trong vườn.

Nàng đi lại không phát ra âm thanh, cũng không lên tiếng. Hai thị nữ cắt nhành mai xong hãy còn đương tán gẫu hăng say, không nhận ra là công chúa đến nên vẫn ríu rít chuyện trò.

Gia Khánh Tử nói: "Tôi từng lén chạy ra đại điện xem Lý phò mã, nói thật chứ, ngoại hình anh ta kém xa các học sĩ, mặc triều phục vào rồi cũng chẳng ra dáng quan thần gì cả."

Vận Quả Nhi nói: "Anh ta vốn cũng có phải quan đâu, anh ta không cần phụ trách nhiệm vụ như những quan viên khác, chỉ cần lĩnh bổng lộc là được rồi."

Gia Khánh Tử thắc mắc: "Phò mã đô úy không phải là quan tòng ngũ phẩm à? Đã có chức danh thì dù sao cũng phải phụ trách cái gì đó chứ?"

Vận Quả Nhi cười: "Phò mã đô úy chỉ là cái chức suông thôi, quan gia sẽ không cho anh ta can thiệp vào triều chính, nếu nói phụ trách cái gì ấy à... Chính là phụ trách làm phu quân công chúa chứ còn gì nữa!"

Công chúa nghe đến đây, ánh mắt tức khắc tối sầm.

Ta ho khẽ một tiếng, hai thị nữ quay đầu lại thấy là bọn ta liền cả kinh, vội đi qua thỉnh an công chúa, một mực cúi gằm đầu, không dám nhìn nàng.

Công chúa lạnh lùng, không nói lời nào. Trương Thừa Chiếu thấy thế, bước lên khiển trách hai cô bé: "Bàn luận vớ vẩn gì sau lưng công chúa đấy hả? Lại còn ăn nói quàng xiên... Phò mã đô úy là phu quân công chúa hồi nào!"

Công chúa nghe hắn nói vậy, hơi quay đầu ngó hắn: "Thế phò mã đô úy là làm gì?"

Trương Thừa Chiếu khom người với công chúa, trả lời vang dội: "Bẩm công chúa, từ 'đô úy' trong phò mã đô úy thực ra có ý là 'quản lý phủ công chúa', chính là giúp công chúa trông nhà coi sân, mà 'phò mã' nghĩa gốc vốn là con ngựa đi ngoài càng xe, nay chỉ đánh xe cho công chúa, hầu công chúa xuất hành, hoặc là làm chân chạy việc ngược xuôi cho công chúa. Nói chung, phò mã đô úy là quan thần trong nhà hầu hạ công chúa có phẩm cấp hơi cao chút ít, nghe lệnh công chúa sai sử, gọi thì tới, đuổi thì đi đó ạ."

Gia Khánh Tử và Vận Quả Nhi nghe mà buồn cười, lặng lẽ giơ tay áo lên che miệng khúc khích, công chúa tựa hồ cũng rất hài lòng với giải thích này, cũng cười theo.

Trương Thừa Chiếu thấy công chúa phản ứng vậy, càng thêm bạo gan, nói tiếp: "Công chúa hạ giáng cũng không giống con gái dân gian xuất giá. Dân nữ xuất giá phải bái kiến cha mẹ chồng, về sau phải cẩn thận phụng dưỡng họ, hiếu thuận với họ hơn cả với cha mẹ ruột, nói không chừng còn phải bị anh trai chị dâu, chú em bà cô bên chồng bắt nạt. Nhưng công chúa hạ giáng thì lại chẳng phải để làm vợ phò mã. Thế nào là 'hạ giáng'? Chính là công chúa như tiên nữ cung trời giáng trần hạ phàm, được nhà phò mã thỉnh về cung phụng. Công chúa vào cửa nhà phò mã, vai vế cả nhà họ đều phải rớt xuống một bậc, công chúa không cần phụng dưỡng cha mẹ phò mã như cha mẹ chồng, cứ coi họ như anh trai chị dâu là được, cũng không cần phải bái lạy họ, ngược lại, là công chúa ngồi trong sảnh đường buông rèm, để cha mẹ chồng bái kiến bên ngoài. Anh trai chị dâu, chú em bà cô bên chồng lại càng khỏi phải nói, chẳng khác nào cháu trai cháu gái của công chúa, lúc họ thỉnh an công chúa, công chúa mà vui vẻ thì cười với họ một nụ, không vui thì chẳng cần đánh mắt liếc họ làm gì..."

Ta nhíu mày trừng Trương Thừa Chiếu, ra hiệu bảo hắn câm miệng, bấy giờ hắn mới chịu ngậm mồm thôi huyên thuyên. Công chúa thì lại nghe đến dạt dào hứng thú, hỏi: "Thật vậy á? Sao cha chưa từng nói với ta?"

Trương Thừa Chiếu nói: "Không gì thật hơn luôn ấy ạ, thể chế lễ nghi quốc triều đã quy định, 'Nhà cưới con vua, theo lệ tự hàng một bậc vai vế mà cư xử'. Quan gia không nói với công chúa chắc là bởi cảm thấy còn chưa đến lúc đó thôi... Dù sao cũng còn những mấy năm, vẫn sớm lắm mà!"

Nghe Trương Thừa Chiếu nói xong, tâm trạng công chúa dần dần chuyển tốt, như một lần nữa ném hôn ước với phò mã ra sau đầu, tiếp tục hưởng thụ tháng ngày thiếu nữ khoái hoạt trước khi xuất giá của mình.

Ta nghĩ bản thân nàng thực ra cũng hiểu rõ ý nghĩa của phò mã đô úy không phải là quan thần trong nhà công chúa, hiện tại nàng cũng đã đến tuổi có hứng thú tìm hiểu về bí ẩn hôn nhân, ta thậm chí còn từng nghe thấy nàng nghiêm túc thảo luận với thị nữ về mối quan hệ giữa được sủng ái và "thị tẩm" của tần ngự khi đi ngang qua trước cửa sổ phòng nàng, nhưng bây giờ, hiển nhiên nàng rất sẵn lòng núp trong lời thuyết minh hạ thấp ý nghĩa phò mã của Trương Thừa Chiếu, gắng hết sức xem nhẹ vai trò chân chính mà Lý Vĩ sẽ đảm nhiệm trong tương lai. Dù sao, chấp nhận một người mình không thích làm "quản lý phủ công chúa" cũng dễ dàng hơn chấp nhận hắn làm trượng phu mình nhiều.


7. Gấm Thục

Tết nguyên tiêu năm nay, kim thượng dẫn hậu phi công chúa giá lâm Tuyên Đức Lâu ngắm đèn. Giống như năm ngoái, vẫn là trên lầu đèn rồng nến phượng, dưới lầu rực rỡ đuốc hoa, nhưng lúc Trương quý phi xuất hiện bên ngự tọa, gấm vóc ả khoác trên thân lại khiến những đèn hoa vốn đủ sức tranh sáng cùng trăng sao này phải ảm đạm thất sắc.

Trương quý phi bận váy dài tay rộng, cổ áo la đào tươi thắm, điểm thêm khăn choàng, đeo hoa tai ngọc, những món này không khác gì khi trước, khác là ở tấm bào gấm ả khoác bên ngoài. Tấm áo này được may từ một loại gấm hoa hiếm có, mềm mại lả lướt, rất gợi hình gợi dáng, nền màu đỏ tím, mặt vải lấy chỉ vàng thêu hình đèn lồng, bên trong tròng hoa văn sen nở. Cả tấm gấm hoa lộng lẫy mỹ lệ, chói lòa lóa mắt dưới ánh đèn soi, khiến người ta không thể nhìn gần.

Quốc triều tôn sùng lối sống tiết kiệm giản dị, Chân Tông từng hạ chiếu cấm kéo vàng xe chỉ may xiêm áo, cũng không cho lấy vàng làm trang sức. Hiện nay lệnh cấm tuy đã được nới lòng, nhưng kể cả ở trong cung cũng rất ít ai dùng chỉ vàng gấm dệt may y phục. Chúng tần ngự luôn để ý tới phục sức của nhau, thấy Trương quý phi ăn mặc như vậy đều lấy làm hiếu kỳ, rất nhiều nương tử trẻ tuổi chạy qua ngắm nghía, miệng tán tụng không dứt, thậm chí còn đưa tay vuốt ve, mắt lộ vẻ ao ước hâm mộ.

Miêu thục nghi và Du sung nghi tuy không tiến lên quan sát, song cũng nghiêng đầu xem liền mấy lần, sau nữa, Du sung nghi không nhịn được hỏi Thu Hòa đi cùng: "Áo bào Trương nương tử mặc may bằng chất liệu gì đấy? Hoa văn trông lạ quá."

Thu Hòa đáp: "Hình như là gấm đèn lồng đất Thục ạ... Thiếp cũng chỉ nghe Sở thượng phục nhắc đến chứ trước nay chưa có duyên chiêm ngưỡng tận mắt bao giờ, không biết đoán có sai không."

Trương quý phi nghe thấy, rất lấy làm đắc ý, nói với Thu Hòa: "Đổng ty sức quả nhiên hiểu nhiều biết rộng, đây chính là gấm đèn lồng."

Thu Hòa cười nhẹ, khẽ cúi người với ả, không tiếp lời.

Kim thượng vốn chỉ im lặng coi xem, nghe Trương quý phi nói vậy mới hỏi ả: "Gấm đèn lồng không phải đồ trong cung, nàng có được từ đâu?"

Trương quý phi quay người về phía ngài, đổi phắt sang vẻ cụp mắt hiền ngoan, nhỏ nhẹ trả lời: "Gấm này do Văn Ngạn Bác sai người dệt nên khi còn là tri Thành Đô, sau ông ấy hồi kinh, phu nhân ông mới biếu nô tì ít thước."

Hai năm trước, thiên tai liên tiếp xảy ra, đê vỡ dân chạy, tể tướng Trần Chấp Trung bị diễn quan buộc tội không ra được quyết sách nào rõ ràng, chỉ biết trông chờ vào thuật sĩ bói toán, sau đó Trần Chấp Trung lấy cớ chân đau, từ chức bãi tướng, ra ngoài làm tri Trần Châu. Tể tướng hiện nay chính là "Đại Tống" Tống Tường và Văn Ngạn Bác từng có công bình định.

Văn Ngạn Bác là bạn cũ của cha Trương quý phi, điều này trong cung ai ai cũng biết. Phụ thân Trương quý phi Trương Nghiêu Phong từng là môn khách của Văn Ký, cha Văn Ngạn Bác, mấy năm nay Trương quý phi ra sức lôi kéo triều thần, muốn giành được sự phò trợ của sĩ phu, bèn nhân quan hệ này qua lại thế giao với Văn Ngạn Bác, nhận Văn Ngạn Bác làm bác trai, cũng thường xuyên liên lạc với phu nhân ông, tiết lộ tin tức trong triều cho bà ta, lấy đó giúp Văn Ngạn Bác tấn chức.

Làm tri Thành Đô được vài năm, Văn Ngạn Bác về triều, không bao lâu sau thì tham gia chính sự. Sau, giáo đồ Di Lặc Vương Tắc dấy binh tạo phản ở Bối Châu, kim thượng vì chuyện Bối Châu gần sát kinh thành mà lo âu sâu sắc, một ngày nọ nói với hậu phi trong cung: "Đại thần chấp chính trong triều không ai chịu đứng ra phân ưu vì nước, hôm nào cũng lên điện diện thánh mà chẳng có ý diệt giặc bình định gì cả." Trương quý phi lập tức sai Giả bà bà xuất cung thuật lại lời này cho Văn Ngạn Bác. Ngày kế, Văn Ngạn Bác lên điện lập tức xin lệnh đi Bối Châu phá địch, kim thượng mặt rồng cả mừng, bổ nhiệm ông làm thống quân, suất lĩnh trọng binh vây công Vương Tắc. Sau nữa, quả nhiên bắt được giặc bình được loạn, kim thượng bèn luận công ban thưởng, phong Văn Ngạn Bác làm tể tướng.

"Nàng và nhà họ Văn cứ như người một nhà thật ấy nhỉ, có cái gì tốt cũng không quên giữ lại cho nhau." Kim thượng cười như không cười bảo quý phi.

Trương quý phi chẳng có vẻ gì là căng thẳng, mỉm cười đáp lại: "Văn tướng công tuy là bạn cố tri của phụ thân thần thiếp, nhưng cũng là trọng thần quốc gia, thần thiếp sao thể sai phái được ông ấy? Tất thảy của thần thiếp đều thuộc về bệ hạ. Văn tướng công bảo phu nhân biếu quà này cho thiếp, ngoài sáng là để thần thiếp may xiêm y, nhưng thực chất là dâng đặc sản đất Thục hiến tặng bệ hạ, tỏ lòng trung quân. Lại nói, thần thiếp nhận được gấm đèn lồng là ơn phước bệ hạ ban tặng. Thần thiếp cảm động khôn chừng, chẳng có gì để báo đáp, chỉ có thể bái tạ mà thôi."

Dứt lời uyển chuyển hạ bái kim thượng. Kim thượng cũng đứng yên nhận lấy rồi đỡ ả bình thân, cười với ả, ôn hòa căn dặn: "Tấm áo này tuy đẹp nhưng thêu hoa chỉ vàng quá mức xa xỉ. Mặc hôm nay thôi, về sau đừng mặc nữa."

Trương quý phi luôn miệng vâng dạ, lại liếc một vòng chúng tần ngự đang đợi xem ả bị kim thượng trách cứ, sóng mắt dập dềnh, đến là hả hê.

Tuy kim thượng lệnh ả về sau không được mặc áo gấm đèn lồng nữa, nhưng điều ấy cũng chẳng ảnh hưởng đến tâm trạng phô bày bộ cánh mới của ả hiện giờ. Sau đó không ngừng nhẹ dời gót sen, đi qua đi lại trên lầu gác Tuyên Đức Môn, có một chốc bỗng dừng lại bên cạnh Miêu thục nghi, nghiêng đầu ngó váy dài Miêu thục nghi bận, chậm rãi nhả lời: "Đóa hoa thêu trên váy Miêu thục nghi nhìn độc đáo ghê."

Thêu trên váy bà là mấy đóa sen ngàn cánh. Miêu thục nghi hiểu ý ả, bèn cười đáp: "Thiếp không biết hôm nay quý phi mặc áo bào có hoa văn hoa sen, chọn y phục không cẩn thận, có phần quá bổn phận, mong quý phi thứ tội. Sau này trước khi ra cửa thiếp nhất định sẽ nghe ngóng cẩn thận, không để tái phạm sai lầm như hôm nay nữa."

Trương quý phi vờ vịt cười nói: "Ta chỉ khen mẫu hoa của Miêu tỷ tỷ đẹp thôi, không có ý gì khác, tỷ tỷ chớ hiểu lầm."

Vừa nói vừa chậm rãi bỏ đi, chuyển sang một chỗ ít người, tựa lan can nhàn nhã ngắm đèn màu kết núi, ngựa xe nườm nượp dưới lầu.

Ả thị uy với Miêu nương tử như thế hiển nhiên đã chọc công chúa bất mãn. Công chúa gườm gườm nguýt quý phi một hồi rồi gọi Trương Thừa Chiếu lại, bảo hắn cúi đầu, ghé tai hắn nói mấy câu. Trương Thừa Chiếu nghe rồi che miệng cười khì, lập tức gật đầu, rón rén lùi ra sau xuống lầu.

Ta nhỏ giọng hỏi công chúa bảo hắn đi làm gì, công chúa đáp: "Ta hơi lạnh, bảo hắn đi lấy áo choàng."

Đương nhiên, đây chắc chắn không phải lời thật, hai mắt nàng không giấu nổi ý cười. Nhưng ta không truy vấn, dẫu sao, rất nhanh thôi là ta biết được đáp án rồi.

Mấy quả pháo bông được gọi là "chuồn chuồn lửa" thình lình bay phụt lên từ dưới Tuyên Đức Lâu, liên tiếp lao vào góc nghỉ chân của Trương quý phi. Trương quý phi cả kinh ré lên, lùi ra sau tránh né, nhưng vẫn bị hai đốm lửa bắn lên người.

Kết quả là lớp gấm đèn lồng thêu chỉ tơ vàng cháy ra hai lỗ thủng ngay trên vai áo, khá là dễ thấy.

Trong khoảng thời gian ấy, công chúa tỏ ra rất ư vô tội, thậm chí còn rú hét theo Trương quý phi khi ả tránh chuồn chuồn lửa, bản thân cũng ôm đầu che mặt chạy tới chạy lui làm bộ né núp, liên tục la lên: "Á, á, sợ quá!"

Cuối cùng, trông thấy được dáng vẻ Trương quý phi hãi chưa dứt cơn, ôm ngực nhìn chằm chằm hai lỗ thủng trên gấm đèn lồng, nàng dừng lại, xoay lưng về phía mọi người, tựa trán lên ngực ta, nín tiếng cười gập cả eo.


8. Tựa tiên

Giữa tháng Ba, ngoài cung truyền vào tin tức Ngụy quốc đại trưởng công chúa bệnh tình nguy kịch.

Ngụy quốc đại trưởng công chúa là con gái thứ tám của vua Thái Tông, cũng là người duy nhất còn tại thế trong số huynh đệ tỷ muội của vua Chân Tông, luôn được kim thượng kính mến. Bà tuy là hoàng nữ cao quý, song lại hiền thục cung kiệm như nhân vật trong "Liệt nữ truyện", sau khi hạ giáng cho phò mã Lý Tuân Húc thì hiếu thuận với cha mẹ chồng, tôn trọng phu quân, đối xử với tỳ thiếp của phò mã cũng rất tử tế, coi con vợ lẽ như con mình.

Sau, phò mã Lý Tuân Húc tư thông với nhũ mẫu của đại trưởng công chúa, sau khi chuyện xảy ra, có ngôn quan kiến nghị phải nghiêm trị phò mã, thậm chí là tước tính mạng y. Chân Tông lưỡng lự, bèn gọi đại trưởng công chúa đến, hỏi dò trước: "Ta có chuyện này muốn nói với muội, nhưng lại sợ..." Còn chưa nói hết, đại trưởng công chúa đã kinh sợ hiểu ra, hỏi ngay: "Lý Tuân Húc không sao chứ ạ?", vừa nói vừa giàn giụa nước mắt, khóc ngã xuống đất. Chân Tông bèn tha thứ cho Lý Tuân Úc, chỉ giáng y xuống làm Quân Châu đoàn luyện phó sứ.

Sau khi phò mã qua đời, đại trưởng công chúa không mặc xiêm y hoa lệ, cài trâm lộng lẫy nữa, thường ngày một lòng nuôi nấng con cái phò mã, dạy họ phải tuân thủ trung nghĩa, bởi vậy nên từ hoàng đế đến sĩ phu trong triều đều khen bà hiền đức, kim thượng còn lấy bà làm thí dụ mỗi bận dạy bảo công chúa giữ gìn phép tắc, tránh thói kiêu căng, tương lai cần tận đạo nữ tắc, kính trọng phu quân, trở thành mẫu mực nữ tử của thiên hạ.

Lần này, vừa nghe tình trạng bệnh của bà, kim thượng tức khắc sai chủ quản Ngự dược viện Trương Mậu Tắc dẫn thái y đến phủ đại trưởng công chúa khám bệnh, từ hoàng hậu, quý phi, công chúa trở xuống đều tới dinh bà chờ hỏi, vào thăm theo lễ người nhà, hoàng hậu tự mình bưng trà thuốc cho đại trưởng công chúa, thái độ cung kính như con trai con dâu bà vậy.

Thái y trở về tấu bệnh tình đại trưởng công chúa không ổn, kim thượng lập tức ngự giá đến phủ đại trưởng công chúa. Đại trưởng công chúa bấy giờ ốm nặng, đã không thể nhìn thấy gì nữa, kim thượng đau buồn, rưng rưng ghé lại giường hôn lên mắt bà, người chung quanh thấy vậy đều rơm rớm ứa lệ.

Tiếp đó, kim thượng quay sang con cháu đại trưởng công chúa, hỏi họ có nguyện vọng gì chăng, ý muốn nhân đây thăng quan tấn tước, đại trưởng công chúa nằm trên giường lại khuyên răn con trai: "Há lại có chuyện mượn bệnh mẫu thân đòi quan gia ban thưởng?" Sau, kim thượng thưởng ba ngàn lượng bạch kim, bà cũng kiên quyết từ chối không nhận.

Sau khi hồi cung, kim thượng hạ lệnh chiêu mộ lương y thiên hạ, hứa hẹn nếu trị khỏi được cho đại trưởng công chúa sẽ lập tức phong quan. Đồng thời ban cho phủ đại trưởng công chữ ngự thư chữ vàng: "Đại Bi Thiên Thủ Nhãn Bồ Tát", còn lệnh công chúa tự tay sao chép trăm cuốn kinh thư cầu phúc cho bà... Nhưng những việc làm ấy đều không thể kéo dài sinh mệnh cho đại trưởng công chúa. Vài ngày sau, Ngụy quốc đại trưởng công chúa hoăng, kim thượng đích thân tới dinh bà khóc tế, ngừng lên triều năm ngày, truy phong bà làm Tề quốc đại trưởng công chúa, nghị bàn định thụy hiệu là "Hiến Mục".

Để tỏ lòng tiếc thương, kim thượng thậm chí còn hạ chiếu không ăn mừng tiết càn nguyên, tể thần đều phản đối, nói không mừng ngày sinh của thánh thượng là không may mắn, kim thượng nghe đó mới thôi khăng khăng.

Do đại trưởng công chúa qua đời, tiết càn nguyên tháng Tư cũng chẳng còn náo nhiệt được như năm ngoái, tuy trình tự lễ nghi vẫn y hệt, nhưng thần sắc hoàng đế ảm đạm, những người khác cũng không thể tươi cười vui vẻ như trước đây.

Lễ mừng thiên tử giáng thế, theo lệ, tể thần suất lĩnh bá quan văn võ xếp đội tới dưới Tử Thần Điện, bái lạy chúc mừng, sau đó, tể thần nâng chung vào điện kính hoàng đế vạn thọ. Lễ xong, hoàng đế ban thưởng canh trà cho bách quan, sau đó di giá vào trong cung, lúc này hoàng hậu đã dẫn chúng mệnh phụ kính cẩn chờ đợi trong ngoài Phúc Ninh Điện. Hoàng đế vào điện rồi, mệnh phụ sẽ bái lạy chúc mừng, phu nhân tể thần cũng có vinh dự được nâng chung vào điện chúc thọ hoàng đế, rồi buộc khăn la hồng đính tua vàng lên cánh tay thiên tử, tỏ ý chúc phúc. Sau đó, chúng phu nhân một lần nữa hạ bái rồi rời đi, tiệc rượu bày ở hành lang mé trái điện, tiếp sau nhạc lễ vang lên, tiệc ngự khai cỗ.

Hôm ấy, vị phu nhân tể thần thực hiện lễ nâng chung là phu nhân của Văn Ngạn Bác. Nâng chung chúc mừng xong, có nội thần dâng khăn la hồng đính tua vàng lên, phu nhân Văn Ngạn Bác nhận lấy, theo nghi thức buộc lên cánh tay kim thượng. Đợi bà buộc chắc rồi, kim thượng bất ngờ hỏi một câu: "Khăn la này là gấm đèn lồng?"

Thoạt tiên, Văn phu nhân sửng sốt, kế tiếp mặt đỏ tía tai, cúi người nói: "Thần thiếp sợ hãi..."

Kim thượng mỉm cười, giọng hòa nhã: "Không sao, mời phu nhân vào chỗ."

Văn phu nhân bái tạ, cúi đầu lui ra.

Sau là mở tiệc, qua mỗi tuần rượu đều có ca múa đàn sáo và tạp kịch (*) từ khúc trợ hứng, nhưng kim thượng xem mà chẳng dậy nổi hứng thú, nghiêng đầu nói với hoàng hậu: "Hiến Mục công chúa quy tiên chưa được bao lâu, nghe mấy màn vũ khúc của giáo phường cứ cảm thấy đinh tai nhức óc."

(*) Tạp kịch là một kiểu hài kịch thời Tống – Nguyên, phát triển thành hí khúc, mỗi vở có bốn màn, đôi lúc giữa các màn còn có phần đệm, mỗi màn dùng lời thoại và bắc khúc cùng vần cùng điệu, chủ yếu lưu hành ở Đại đô tức Bắc Kinh ngày nay.

Hoàng hậu kiến nghị: "Hay là tạm dừng hợp tấu, chỉ lệnh một, hai người thổi sáo tiêu thôi ạ, như vậy vừa có tiếng nhạc mà cũng không đến mức đinh tai nhức óc."

"Sáo tiêu à..." Kim thượng trầm ngâm, lại như nhớ đến điều gì, nét mặt ngài dần hé nở một nụ cười nhàn nhạt, "Nhớ có một năm vào tiết càn nguyên, Tào lang cũng từng dùng sáo rồng thổi 'Thanh bình nhạc' trên điện, Đỗ cô nương lấy không hầu hòa theo. Tiếng sáo trầm bổng réo rắt như trúc trong gió, không hầu kỳ ảo thanh thoát như nước sông băng, tiếng hai loại đàn lúc phân lúc hợp, giao quện ăn ý, êm tai vô cùng, dư âm như hãy còn văng vẳng bên tai vậy."

Hoàng hậu cũng mỉm cười: "Khi đó em trai thần thiếp mới chỉ là thiếu niên mười mấy, giờ đã chẳng tiện lên điện diễn tấu hiến dâng bệ hạ nữa rồi. Huống hồ, nơi này cũng khó mà tìm được một Đỗ cô nương..."

Kim thượng gật đầu, giọng rầu rầu: "Phải, giờ nghĩ lại cũng chỉ có thể cảm thán rằng lẽ ra khúc ấy nên hiện thế mà thôi."

Như thường lệ, công chúa ngồi gần bên đế hậu, nghe đến tên Tào Bình, hai mắt nàng như nước bích hồ dưới nắng xuân chiếu rọi, lấp lánh xán lạn, lúng liếng rạng rỡ. Lúc này đang vô cùng quan tâm đến vẻ mặt của kim thượng, nàng nhìn ngài chằm chằm không chớp mắt lấy một cái, chờ đợi phản ứng của ngài.

Kim thượng cũng khá hứng thú với kiến nghị này, bèn hỏi hoàng hậu: "Cậu Bình hôm nay cũng vào cung à?"

Hoàng hậu đáp: "Dạ, hiện đang theo phụ thân nó dự tiệc dưới Tử Thần Điện."

Kim thượng lập tức bảo Nhậm Thủ Trung đứng hầu bên mình sai người đi mời Tào Bình, nghĩ ngợi rồi lại hỏi Trương Duy Cát: "Nữ tử trong giáo phường ai giỏi không hầu nhất?"

Trương Duy Cát thưa: "Tài nghệ không hầu của tiên thiều phó sứ (*) Lư Dĩnh Nương nghe được lắm ạ."

(*) Tên một chức nữ quan bát phẩm làm việc cho dàn nhạc cung đình.

Kim thượng bèn sai người bày không hầu lên điện, tuyên Lư Dĩnh Nương vào để lát nữa hợp tấu cùng Tào Bình.

Chốc sau, có nội thần dời không hầu của giáo phường vào một góc đại điện, không hầu cao chừng ba thước, hình dạng như chiếc lược gỗ bán nguyệt, sơn đen khắc hoa thếp vàng làm trang trí, căng hai mươi lăm dây, phía dưới có bục ngồi.

Lư Dĩnh Nương và Tào Bình lần lượt vào điện, thi lễ với đế hậu, sau khi lĩnh mệnh tấu "Thanh bình nhạc", hai người lui sang một bên, nhỏ giọng thảo luận chi tiết phối hợp hòa tấu, sau đó ai vào vị trí nấy. Lư Dĩnh Nương quỳ ra sau không hầu, cúi đầu cụp mi, giao tay chuẩn bị gảy dây, còn Tào Bình thì nhận lấy cây sáo rồng tám lỗ ngự tứ, cầm trong một tay mỉm cười đứng tại giữa điện, chưa thổi ngay mà yên lặng đợi không hầu cất tiếng.

Sau một thoáng tĩnh lặng, mười ngón tay Lư Dĩnh Nương thoắt múa, một chuỗi tiếng nhạc như những viên ngọc va chạm lẫn nhau, như dòng suối chảy trên ngọn đồi tuyết tức thì vang lên, "Thanh bình nhạc" là từ khúc đã được giáo phường tấu diễn rất nhiều lần bằng khèn và tỳ bà, lúc này được diễn dịch qua không hầu, rót vào tai nghe xuất trần đến lạ, tựa tiếng trời trên mây.

Tào Bình đợi cô tấu hết một đoạn mới từ từ đưa sáo lên bên môi. Không hầu tạm dừng âm, một giai điệu êm ái như gió nhẹ hiu hiu vút lên, nối tiếp du dương bay vào thinh không nơi đại điện, tựa một tia hơi nước xông hương mỏng manh toát ra từ mõm tượng thú vàng, tiếng nhạc như mang theo hơi thở hoa cỏ buổi tinh mơ, yên ả khoan khoái mà triền miên dai dẳng, bảng lảng uốn lượn, dụng tâm nghe kĩ sẽ cảm thấy tâm tư cũng theo đó bay bổng trong mây.

Tấu đơn hoàn tất, hai người bắt đầu hợp tấu, tiếng sáo và không hầu giao pha quấn quít, lại tựa phù dung mướt sương, lan thơm đón gió, người nghe đều nín thở yên tĩnh lắng nghe, khi thì như chạm tới gió thoảng mưa bụi, chốc lại như đứng dưới trăng lạnh mờ tỏ.

Hơn nữa, không chỉ có tiếng nhạc làm rung động lòng người, hai nhân vật tấu nhạc cũng quá đỗi tươi đẹp. Phong tư của Tào Bình thì khỏi phải bàn nhiều, Lư Dĩnh Nương cũng chỉ tầm đôi tám, dáng dấp yểu điệu, mày tựa núi xa, mắt hàm thu thủy. Trong lúc thổi sáo, Tào Bình đã nhiều lần liếc cô giữa những đoạn ngắt nghỉ, mà cô cũng từng trộm ngó Tào Bình, đến lúc ánh mắt chạm nhau, một nét son hồng phớt hờ đôi má.

Có điều, cảnh tượng này lại khiến công chúa không vui, sau cùng, nàng dứt khoát quay đi không xem Tào Bình nữa, cụp mắt mím môi, giận dỗi ra mặt.

Tấu xong một khúc, kim thượng khen: "Cậu Bình còn nhỏ tuổi mà đã học được quá nửa tuyệt kỹ cha mình rồi, tấu cùng Dĩnh Nương khúc này khá lắm, nghe ra có chút ý tứ núi trống mây ngưng."

Chúng tần ngự đều hùa theo tán thưởng, chỉ duy công chúa không nói câu nào. Giữa chừng Tào Bình nhìn nàng mấy lần như đợi nàng đánh mắt ra hiệu, song nàng một mực mặt lạnh ngồi thẳng, mắt dõi ra trước, quật cường không chịu liếc cậu mảy may.

Mấy ngày liền sau đó đều không nghe thấy nàng nhắc đến cái tên Tào Bình hay những chuyện liên quan nữa, mãi cho đến một ngày, nàng dạo chơi tới bên Dao Tân Trì, ngẩn ngơ đưa mắt nhìn liễu khói xa xa, một lúc lâu sau, bỗng xoay phắt lại nói với ta: "Ta muốn học không hầu."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen30h.Com