Truyen30h.Com

Co Thanh Be Milan Lady

1. Dĩnh Nương

Một vài biến hóa vi diệu của công chúa cũng khởi thủy vào năm Chí Hòa thứ hai.

Tảng sáng hôm lập hạ, như thường lệ, ta tới trước phòng công chúa, chuẩn bị đợi nàng rửa mặt chải đầu xong thì hầu hạ, Tiếu Diệp Nhi lại đi ra nói với ta, công chúa đã dậy từ sớm, sau khi gội đầu xức hương đã ra vườn hoa sau gác luyện đàn không hầu.

Ta lập tức ra sân sau tìm nàng. Chưa vào đã nghe thấy một chuỗi tiếng không hầu như nước chảy mây trôi theo gió tản ra, bay tới trước mặt.

Âm thanh ấy du dương trầm bổng, lại ngậm tình hàm vận, nghe mà lòng dạ bồng bềnh, trời đất cũng hóa trong xanh, đến chim chóc trên cây cũng như chợt quên ca hát.

Kể từ khi có không hầu, giữa ta và công chúa cơ hồ chẳng còn giấu nhau điều gì không nói nữa, nàng có thói quen đan một phần bí mật vào khúc không hầu, thế nên mỗi lần nghe nàng đàn, ta đều bất giác phỏng đoán tâm tư nàng như một phản xạ.

Ta bước chậm lại, khẽ khàng đến gần.

Nàng ngồi trước lan can bạch ngọc trong vườn thược dược. Thân bận áo đơn tay rộng bằng vải sa, eo quấn váy lựu đỏ thuần, mái tóc dài mới gội xong hãy còn ẩm, chưa vấn lên ngay mà để xõa sau lưng, đuôi tóc buông chấm làn váy la đỏ xếp li trải rộng, mái tóc đen tuyền uốn thành một độ cong mềm mại duyên dáng, nàng ngồi quỳ sau cây đàn không hầu sơn đen khắc vàng, cụp mi gảy dây.

Nàng chuyên chú diễn dịch khúc nhạc, không để ý tới ta lại gần, mãi đến khi tấu xong một khúc mới từ từ đứng lên, nghiêng người ngó ta.

"Hoài Cát, huynh đến rồi." Nàng cười với ta, dáng vẻ yêu kiều, mắt mày xinh tươi.

Ánh mắt ta lướt qua nàng nhìn về vườn hoa phía sau – thược dược trong vườn đỏ thuần tươi thắm, màu sắc y hệt chiếc váy lựu của nàng, đang nở rộ rực lửa.

Năm nay nàng mười tám. Trước đây luôn cảm thấy tuổi thơ nàng đằng đẵng, tuy cũng từng nghĩ đến sẽ có một ngày nàng lớn lên, song lại chẳng ngờ ngày ấy tới nhanh đến thế, ta còn chưa kịp chuẩn bị tâm lí, nàng đã vụt thoắt trưởng thành.

Phong ba chuyện truy phong Ôn Thành dần lắng xuống, kim thượng lại như cảm thấy áy náy với hoàng hậu, có ý muốn bồi thường, nên gần đây đối xử với bà rất tốt. Bữa tiệc mừng thọ hôm ấy, kim thượng đặc biệt mời rất nhiều thân thích hậu tộc tham dự, trong đó bao gồm cả cha con Tào Dật.

Tiệc bày ở Quần Ngọc Điện trong Hậu uyển, giữa nam tử hậu tộc và cung quyến buông một lớp rèm ngăn cách. Rượu qua vài tuần, có nội thị xướng danh nghênh công chúa, công chúa lộng lẫy đi vào, tấu vang không hầu sau bức rèm.

Khúc nàng chọn đàn là "Thanh bình nhạc". Khi mười ngón tay nàng gảy búng nên chuỗi nhạc đầu tiên, Tào Bình ngoài rèm hơi trố mắt, ngước lên trông hướng công chúa ngồi.

Ta nghĩ công chúa hẳn là biết giờ khắc này Tào Bình đang nhìn mình, song nàng chẳng có ý định cho cậu một cái liếc mắt, rèm mi buông rủ, vẫn rành rọt gảy dây đâu ra đấy, khóe miệng loáng thoáng một nụ cười, nhưng lại dè dặt mà lãnh đạm.

Mấy năm nay, công chúa và Tào Bình cũng từng có cơ hội gặp mặt trong một số buổi tiệc rượu hoặc dạo vườn, nhưng công chúa một mực tránh né, không gặp lại cậu. Ta cũng chẳng ngờ nàng bướng bỉnh đến thế, trước đây Tào Bình chẳng qua chỉ nhìn Lư Dĩnh Nương nhiều hơn dăm cái liếc mà nàng đã lập tức người dưng nước lã với cậu kể từ đó.

Khúc "Thanh bình nhạc" của công chúa bây giờ thùy mị thanh tao, so với cách diễn dịch của Lư Dĩnh Nương năm đó còn trội thêm mấy phần cao quý. Khúc hết, mọi người đều hết lời khen ngợi. Công chúa đứng dậy bái tạ, nói lời chúc mừng hoàng hậu rồi xin cáo lui đi thay y phục, dẫn ta và hai thị nữ ra khỏi điện.

Đương đi tới bên Dao Tân Trì, cách đó không xa phía trước chợt truyền đến tiếng sáo, cũng là "Thanh bình nhạc". Công chúa sững người, không khỏi bước về hướng đó mấy bước như tìm kiếm điều gì.

Sau hòn giả sơn bằng đá chồng ven hồ lộ ra một góc áo, là màu trời nước xanh biếc thanh nhã. Theo bước chân công chúa lại gần, người mặc tấm áo biếc cũng dịch bước đi ra, thổi sáo rồng trong gió mát lồng lộng, ống tay rộng tung bay, đôi mắt đẹp nhìn về phía công chúa như cười như không, ánh mắt và giai điệu tiếng sáo vấn vít phất qua khóe mắt đuôi mày công chúa.

Ta thầm thở dài. Chàng trai này bây giờ còn cuốn hút hơn năm đó, đối với công chúa cũng càng nguy hiểm hơn.

Tấu xong một đoạn dưới cái nhìn chăm chú đến thất thần của công chúa, Tào Bình hạ cây sáo rồng xuống, mỉm cười hỏi nàng: "Từ biệt gần năm năm, công chúa vẫn khỏe chứ?"

Công chúa khẽ cắn môi, không trả lời, xoay người muốn đi.

"Công chúa," Tào Bình gọi nàng, tiến vài bước lại gần nàng, nghiêng đầu cúi người đến là nhã nhặn, nhẹ giọng nói: "Thần có một chuyện nghĩ mãi không ra, mong công chúa chỉ giáo."

Công chúa do dự, nhưng cuối cùng vẫn đáp: "Chuyện gì?"

"Vì sao sau tết Càn Nguyên bốn năm trước, công chúa lại luôn tránh thần không gặp?" Cậu vẫn cười rất ôn hòa, câu hỏi hỏi ra thì lại rất trực tiếp.

Hai mắt công chúa dâng lên ánh lệ. Nàng vẫn duy trì tư thế đưa lưng về phía cậu, không để cậu phát hiện ra sự xúc động của mình lúc này. Trầm mặc một lát, nàng rảo bước bỏ đi, cái sau cùng để lại cho cậu là một đáp án lặng im.

Công chúa thay y phục xong trở lại điện, vô tình cố ý lướt mắt qua chỗ ngồi dành cho khách nam. Ta biết nàng muốn tìm gì, nhưng Tào Bình cũng không ở đó.

Ta lặng lẽ rời đi, không lâu sau trở về, nhỏ giọng báo cho nàng biết hướng đi của Tào Bình: "Tào công tử vẫn đang ở bên Dao Tân Trì, ngồi dưới cây liễu thất thần nhìn về phương xa... Trời mưa, cậu cũng không có ý đi tránh."

Công chúa ngồi ngay ngắn, làm như không nghe thấy lời ta. Một lúc lâu sau, nàng mới quay đầu lại gọi ta, khẽ giọng phân phó: "Bảo người đưa cho hắn cái ô đi."

Câu phân phó này cho thấy chung quy nàng vẫn không coi cậu là người dưng, qua đây, ta cảm giác được chuyện tình của đôi thiếu nam thiếu nữ này – nếu có thể coi tình cảm như ẩn như hiện ấy là chuyện tình – hãy còn cơ kéo dài. Mà vài ngày sau, một chuyện bất ngờ cũng đã chứng minh cho cảm giác đó.

Ngày ấy, vị nhạc sư vốn luôn đúng giờ đến dạy công chúa không tới, người vào Nghi Phượng Các cầu kiến công chúa lại là Lư Dĩnh Nương nàng chán ghét xưa nay. Lư Dĩnh Nương bẩm báo công chúa, vị nhạc sư cũ hôm nay bị ốm nên đặc biệt phái cô tới xin nghỉ với công chúa, công chúa có chỗ nào khó hiểu cần giải thích, có thể hỏi Dĩnh Nương.

Công chúa lạnh mặt, nói hôm nay không có vấn đề gì cần thỉnh giáo, bảo Dĩnh Nương đi về. Dĩnh Nương thưa dạ, lui tới cửa, công chúa lại gọi cô lại, nói: "Thôi, đã tới rồi thì tấu một khúc cho ta nghe đi."

Dĩnh Nương ưng thuận, quay lại ngồi vào chỗ, mỉm cười hỏi: "Công chúa muốn nghe gì ạ?"

Công chúa đáp: "'Thanh bình nhạc'."

Dĩnh Nương cười: "Trong bữa tiệc mừng thọ hoàng hậu, khúc 'Thanh bình nhạc' của công chúa choáng ngợp bốn bề, thiếp mà tấu khúc này há chẳng phải múa rìu qua mắt thợ, học đòi vụng về ư?"

"Nào có," công chúa lạnh nhạt nói, "Tết Càn Nguyên bốn năm trước, khúc 'Thanh bình nhạc' Dĩnh Nương cô tấu cùng Tào đại công tử mới gọi là choáng ngợp bốn bề. Ngón đàn tuyệt diệu, tư thái mỹ lệ của cô khiến mọi người khuynh đảo, mà giờ đây ta tấu khúc này mới là học đòi vụng về đó."

"Công chúa đừng nói vậy, thiếp tổn thọ mất." Dĩnh Nương vội cúi người bái tạ, sau đó, cô kể lại một chân tướng chưa từng cho ai biết khi ấy: "Nói ra mới đáng thẹn làm sao. Bận ấy thiếp nhận lệnh hợp tấu 'Thanh bình nhạc' cùng Tào đại công tử, chuyện đột ngột quá, trong lúc vội vàng thiếp cũng chẳng chuẩn bị cẩn thận được gì, chỉ bàn bạc đặng có vài câu với Tào công tử trước lúc diễn tấu, chi tiết phối hợp cũng là cậu ấy định. Lúc hợp tấu, thiếp lại quá đỗi khẩn trương, liên tiếp phạm sai lầm, không phải quên biến điệu theo cách Tào công tử biên khúc thì cũng là quên phối hợp chỗ phân hợp giữa không hầu và sáo rồng, làm cậu ấy cứ phải đánh mắt nhắc nhở suốt, thiếp xấu hổ hết sức, sai lại thêm sai..."

Cô chưa nói hết, công chúa đã trợn to hai mắt, một tay bắt lấy cánh tay cô, giọng hơi run run, hỏi: "Là cô đàn sai nên hắn mới nhìn cô?"

Dĩnh Nương gật đầu, chúm chím đáp: "Vâng. Khúc ấy đàn được tới cùng đều là nhờ Tào công tử phối hợp che đậy cho đấy ạ."

"Thì ra là thế..." Công chúa buông Dĩnh Nương ra, ngơ ngẩn nhìn cô chằm chằm hồi lâu, bỗng bật cười không dứt, vùi đầu vào giữa cánh tay, tựa bàn không dậy nổi.

Dĩnh Nương thẹn thùng: "Thiếp lập lờ đánh lận con đen, để công chúa chê cười rồi."

"Ôi, không phải ta cười cô đâu..." Công chúa vẫn nhoài người trên bàn, nhưng nghiêng đầu ngó cô, hai mắt như sao, lấp lánh ngập ánh vui mừng, "Cảm ơn cô, Dĩnh Nương. Sắc son của cô hôm nay đẹp lắm, hương lan xạ xông áo cũng rất thơm."


2. Xướng họa

Hằng tháng, Phu nhân Tào Dật Trương thị đều vào cung thăm viếng hoàng hậu, lần gần đây nhất, bà dẫn theo hai cô con gái cùng vào, mà lúc Tào nhị cô nương yết kiến hoàng hậu đã xin cầu kiến công chúa với lí do muốn thỉnh giáo nàng về không hầu. Hoàng hậu tất nhiên là cho phép, tức thì sai nội nhân dẫn cô đi Nghi Phượng Các.

Tào nhị cô nương nhỏ hơn công chúa chút ít, chừng mười lăm mười sáu tuổi, tính tình cởi mở hoạt bát. Vào rồi tíu tít trò chuyện cùng công chúa, chủ đề không gì ngoài cảm thụ khi mới học không hầu và những chỗ cảm thấy khó khăn, công chúa bèn mời cô gảy thử một khúc, cô đáp ngón đàn mình thô thiển, thẹn để mọi người nghe, xin công chúa bình lui tùy tùng. Công chúa cũng bằng lòng, bảo mọi người lui, chỉ giữ lại mình ta bên cạnh.

"Hoài Cát am hiểu âm luật, em đàn có chỗ nào không đúng, huynh ấy cũng có thể chỉ ra." Công chúa giải thích với Tào nhị cô nương.

Tào nhị cô nương gật đầu, cười nói: "Em biết, Lương tiên sinh không phải người ngoài."

Câu này làm ta cảm thấy ý cô không nằm trong lời. Quả nhiên, điều kế tiếp cô làm cũng chẳng phải là đàn không hầu mà là lấy một chiếc ô giấy dầu từ túi gấm mang theo ra.

"Đại ca bảo em mang cái ô này tới trả lại cho công chúa." Cô nói.

Đó đúng là chiếc ô ta sai người đưa cho Tào Bình hôm sinh nhật hoàng hậu. Công chúa cũng không để ý nhiều, chỉ liếc mắt một cái, bảo ta nhận lấy, trách: "Một chiếc ô thôi, hà tất phải phiền em trả lại."

"Đại ca nói, công chúa chưa từng nói ô này là tặng huynh ấy nên cũng chỉ có thể coi là mượn, đương nhiên phải trả." Tào nhị cô nương trả lời rồi nháy mắt với công chúa mấy cái, hé một nụ cười khác lạ rất đáng nghiền ngẫm, lại nói: "Đại ca em cẩu thả, mượn đồ người khác thường hay làm hỏng, hay là công chúa kiểm tra thử xem chiếc ô này có còn dùng tốt không, có bị hư hại gì không đi ạ."

Công chúa cũng có vài phần nghi hoặc, bấy giờ mới nhận lấy chiếc ô trong tay ta, từ từ mở ra.

Ô vẫn là ô, nhưng quả thực hơi khác so với khi trước – trên mặt ô dày đặc những con chữ dùng kim đâm ra. Công chúa giơ ô về phía nguồn sáng ngoài cửa, tia sáng xuyên qua lỗ kim, những con chữ kia lập tức hiện ra sáng rực.

Trên đó viết một bài "Ngư gia ngạo":

Ngoài hiên cây biếc đượm nắng chiều, sóng dìu nhịp chèo lùa trống tiêu. Áo hồng vờn bướm trong tuyết liễu, sao phiêu diêu, nghe ta ca tẫn câu thần diệu.

Bóng đậu cành cây chiều xuân cũ, áo la níu đứt nào khôn giữ. Hận buổi năm nao quỳnh uyển tụ, lạ lùng ư, hoa rơi gió thổi tẩy mưa thu.

Chiếc ô giấy dầu tầm thường ấy bởi chỗ hư hại có dụng ý này mà trở thành bảo bối công chúa yêu thích không buông tay. Mấy ngày sau đó, hễ có lúc nào rỗi rảnh, nàng không phải ôm chiếc ô này vào lòng vuốt ve thì cũng là lặng lẽ đi tới đình viện không người, mở ô ra giơ lên cao, để ánh mặt trời vàng óng xuyên qua trăm ngàn lỗ nhỏ, rắc lên thân mình lớp chấm sáng như kim sa.

Nàng cười tủm tỉm, vừa xem câu chữ trên ô, vừa xoay xoay cán ô, để những chấm sáng vàng hươm nhảy múa bay liệng quanh mình, bản thân cũng chậm rãi xoay tròn theo đó, làn váy la trắng xếp li cũng nhẹ nhàng xòe ra, tựa một đóa hoa nở rộ trong nắng chiều.

Những lúc như vậy, ta thường nấp sau cột trụ hàng hiên, làm cái bóng chính ngọ của nàng, yên lặng bầu bạn với nàng, đồng thời không để nàng cảm nhận được sự tồn tại của mình.

Ta đoán nàng sẽ hồi đáp lại lời thăm dò của Tào Bình. Một buổi chiều nọ, nàng đơn độc khóa mình trong thư phòng, thật lâu sau vẫn chưa thấy bóng dáng đâu. Ta đi dâng trà, gõ cửa mấy lượt mới thấy nàng luống cuống mở ra, trên tay còn vương dấu mực.

Ta mời nàng uống trà, lại liếc vào phòng, phát hiện ra trong sọt rác chất đầy những tờ giấy đã qua sử dụng. Thừa dịp nàng cúi đầu uống trà, ta nhặt cục giấy vo tròn trên cùng lên, mở ra xem.

Nàng hô lên một tiếng kinh hãi, trong cơn hấp tấp làm sánh canh trà hắt ướt xiêm y mà cũng chẳng buồn đoái hoài, vội vã nhào tới cướp lấy tờ giấy trong tay ta. Ta cười khẽ, vừa ngăn trở vừa xem tiếp.

Rất hiển nhiên, nàng đang điền từ với Tào Bình. Trên tờ giấy là một bài "Ngư gia ngạo" đương viết dở:

Mộng về mai uyển lại tìm lối, hoa rừng thắm sắc nhuộm muôn cội. Ngồi ngắm chim trắng múa xa xôi, sớm lại tối, ca tẫn hỏi người chốn nơi hồi.

Dăm năm dây đứt đã mấy bận, phá trống canh ba điệu nhạc ngâm...

Thấy nàng hãy còn đang cố sức giành giật, ta cười với nàng: "Đừng cướp nữa, kiệt tác của công chúa thần đã vinh dự đọc xong rồi."

Bấy giờ nàng mới nhụt chí, ngừng tay thôi tranh giành, rầu rĩ ngồi xuống, có vài phần buồn bực, cũng có vài phần ngượng ngùng, nàng quay đầu sang một bên, giận dỗi không chịu nhìn ta.

Ta tỉ mỉ đọc lại một lần nữa bài từ của nàng, lại xem dáng vẻ tức giận của nàng, dần cảm thấy hành động mới rồi của mình quá mức vô lễ, bèn hòa nhã ca ngợi nàng: "Bài từ này công chúa viết không tệ, thần đọc nhẩm rồi chỉ thấy ngập tràn tinh hoa, dư hương khắp miệng."

Nàng lườm ta: "Xem huynh cười là biết ngay huynh nói câu này chẳng có xíu thành ý nào hết."

Câu này gợi lên nụ cười thật sự của ta. Ta dịu dàng ngắm nàng, chỉ cảm thấy nụ cười nhạt, cái nhăn mày của nàng không chỗ nào là không rung động lòng người, đến ánh mắt khi lườm nguýt cũng khả ái đáo để, thế nên, được nàng khinh bỉ oán trách cũng là một chuyện hạnh phúc.

"Sao nhìn ta như vậy? Mặt ta dính gì à?" Nàng hỏi, rất không yên lòng, đưa tay sờ sờ mặt, kết quả lại làm dấu mực trên tay dính lên mặt thật.

"Phải, có một chút." Ta nói rồi chìa ống tay tấm áo đơn màu trắng sạch sẽ của mình ra, lau vết nhơ cho nàng.

Động tác này đã hóa giả địch ý nảy sinh trong cơn tức tối nàng dành cho ta, nàng cụp mắt, hỏi ta rất ư thấp thỏm: "Từ ta viết vẫn tệ thế à?"

Ta lắc đầu, động viên nàng: "Bây giờ viết đã hay hơn trước đây nhiều rồi."

Nàng nhoẻn cười vui vẻ. Ta cũng cười theo, lại chỉ vào tờ giấy mở ra kia: "Viết nốt đi thôi."

"Ôi," Nàng cụt hứng thở dài, "Mấy câu sau nghĩ thế nào cũng thấy không vừa lòng, thế nên đến đây thì bỏ."

"Lại đang nghĩ xem chọn khoai sọ tròn hay khoai sọ chua à?" Ta hỏi.

Nàng phì cười. Đại khái là nhớ tới chuyện điền từ khi còn bé, nghĩ mà thẹn thùng, nàng lấy hai tay che mặt cười, cười cười một chốc, ngón tay lại he hé mở một khe hở, con mắt cười đến híp mí ngó qua đó dòm ta.

Ta ngậm cười nhìn nàng, nghĩ lại bài từ nàng viết, thoáng trầm ngâm rồi lấy bút ra, hoàn thành câu thơ dang dở của nàng:

Cũng muốn bắt chước chủy cung lầm, Chu lấn cấn (*), chân mày tương tư nhuốm đậm thâm.

(*) Chủy và cung là hai âm thuộc ngũ âm thời cổ. Câu này lấy ý từ thành ngữ "曲有误,周郎顾 (khúc hữu ngộ, Chu lang cố)", xuất xứ từ "Tam quốc chí – Chu Du truyện", kể về danh tướng Chu Du nước Đông Ngô thời Tam quốc, tương truyền ông là người tinh thông âm luật, lúc nghe người ta diễn tấu, dẫu có uống vài chén rượu, đã ngà ngà, mà chơi nhạc có chút sai lầm cũng không gạt được tai ông, mỗi khi phát hiện ra sai sót, ông sẽ liếc về phía người diễn tấu, mỉm cười, nhắc nhở âm sai.

Viết xong, ta đặt bút xuống, cho nàng xem. Nàng đọc rồi hai mắt tỏa sáng, dường như rất hài lòng, song lại lặng lẽ liếc ta, hai má ửng đỏ, đánh mắt về câu cuối cùng, lí nhí: "Nhưng mà, nhưng mà..."

Ta ôn hòa kiến nghị: "Nếu công chúa thấy hai chữ 'tương tư' bộc trực quá thì đổi thành 'xa nhớ' cũng không phải là không thể."

"Đổi cái gì mà đổi..." Nàng đỏ mặt nói, "Ta có nói là muốn dùng đâu... Ta chỉ viết chơi thôi, không phải là cho ai xem..."

Câu sau cuối, giọng nàng nghe như thầm thì. Xé bỏ tờ giấy trên bàn, nàng vo nó thành một cục, nhưng lần này lại không ném vào sọt rác mà nắm trong lòng bàn tay, nhẹ bước chạy ra khỏi thư phòng.

Ta chậm rãi bước lại gần cửa sổ, buồn bã dõi bóng nàng đi xa, lại ngẩng đầu trông về chân trời – nơi ấy mặt trời đương trắng lóa, song lòng ta lại bắt đầu đổ mưa.


3. Chuyện tình

Sau đó, ta không hỏi lại công chúa về "Ngư gia ngạo", song chẳng có gì để nghi ngờ, bài từ ấy nhất định đã được đưa đến tay Tào Bình. Nàng đã nghĩ ra cách làm được, có thể là qua Tào nhị cô nương, có thể là sai Trương Thừa Chiếu chuyển đi – hắn vẫn luôn ra sức làm tất cả những gì có thể lấy lòng công chúa bất chấp nguyên tắc... Nghĩ tới đây, ta có phần xem thường chính mình: Thực ra, chẳng phải lúc điền từ thay công chúa, ta cũng là đang làm chuyện bất chấp nguyên tắc sao? Biết rõ nàng và Tào Bình không thể đi đến đâu, để mặc chuyện phát triển sẽ rất nguy hiểm, vậy nhưng vẫn trợ giúp nàng.

Ta khó mà giải thích được hành vi của mình, cũng không muốn nghĩ sâu, sợ dò xuống nữa sẽ chạm tới nguyên nhân mình chẳng thể tiếp thu được.

Tháng Mười hai năm ấy, kim thượng quyết định tuần du học phủ, bèn ngự giá đến Quốc tử giám ngoài Chu Tước Môn, bái tế Khổng Tử, thị sát học xá, đồng thời nghe quan giảng thư giảng kinh.

Quốc triều tôn sùng nho học, chú trọng đào tạo học trò, đó là nghi thức được cử hành hằng năm, nhưng lần này, công chúa lại xin được đi theo nghe Hồ Viện, trực giảng trứ danh của Quốc tử giám, giảng kinh. Kim thượng tức khắc cự tuyệt, nói nữ tử vào Quốc tử giám bái tế nghe giảng là chuyện chưa từng xảy ra, tuyệt đối không thể đi. Công chúa năn nỉ mãi, nói có thể không tham gia nghi thức cúng tế, hơn nữa mọi nơi hoàng đế đặt chân khi tuần du học phủ đều có trướng ngự che đậy, chỗ thánh giá nghỉ ngơi còn dựng bình phong và trướng la vàng, nấp trong đó sẽ không phải sợ bị người khác nhìn thấy, lúc giảng kinh nàng ngồi sau bình phong, không để người ta biết là được.

Kim thượng xua tay không đồng ý, công chúa dẩu môi nhìn phụ thân đăm đăm một lát, chợt thở dài, ủ ê than: "Chuyện con gái tiếc nuối nhất đời này chính là không thể sinh ra làm thân nam nhi, học tập kinh nghĩa thao lược dưới sự chỉ bảo của danh sư, san sẻ trăm mối bộn bề với phụ hoàng."

Câu này chọc trúng tâm bệnh của kim thượng, hốc mắt ngài bỗng chốc đỏ bừng, sau khi lặng lẽ nghiêng đầu lau hốc mắt, rốt cuộc ngài cũng buông miệng: "Được rồi, con đi theo cha. Nhưng hành động cử chỉ nhất định phải thật cẩn thận, chớ để thất lễ trước Văn Tuyên vương (*)."

(*) Chỉ Khổng Tử. Năm Khai Nguyên thứ hai mươi bảy, Đường Huyền Tông đã tôn Khổng Tử làm Văn Tuyên vương.

Hồ Viện là vị phu tử nổi tiếng nhất quốc triều, hiện đang giữ chức trực giảng Quốc tử giám, ngày thường chưởng quản Thái học viện, học trò có đến ba, bốn trăm người, phàm buổi ông dạy đều có người từ bên ngoài tới xin dự thính, lúc đông nhất thậm chí còn vượt hơn ngàn người, trong điện giảng mà không còn chỗ ngồi, đám học trò sẽ đứng ngoài cửa nghe. Ông dạy dỗ phương pháp hiệu quả, trong chúng đệ tử có rất nhiều người đỗ đạt đăng khoa, đậu tiến sĩ kỳ thi đình gần đây nhất, mười phần phải đến bốn, năm là học trò của ông. Mà y phục cử chỉ của nhóm học trò này thường na ná nhau, bởi vậy nên đi trên đường, người nhìn tuy không quen biết song chỉ cần liếc mắt là nhận ra được ngay họ là đệ tử Hồ Viện.

Tuy nhiên, công chúa khăng khăng đòi đi nghe giảng chuyến này hẳn không phải là thật sự muốn chiêm ngưỡng phong thái danh sư của Hồ Viện.

Học phủ mở công trong kinh đô quốc triều chia làm hai nơi: Quốc tử giám và Thái học viện. Thái học viện thu nhận con em nhà quan viên từ hàng bát phẩm trở xuống và người xuất chúng thuộc tầng lớp thứ dân, còn Quốc tử giám là trường học cho con cháu quan viên từ thất phẩm trở lên đến cầu học – mà Tào Bình thì là học trò Quốc tử giám.

Ngày ấy kim thượng quả nhiên dẫn công chúa cùng đi Quốc tử giám, sau khi ngồi liễn vào cửa, ngài bảo công chúa đến chỗ nghỉ ở hậu điện nghỉ ngơi trước, bản thân thì lên chính điện thăm viếng Văn Tuyên vương Khổng Tử, dâng hương ba lượt, quỳ gối nhận tước, tế rượu ba lượt, rồi lại hạ bái. Làm lễ xong xuôi mới có thể vào trướng thay y phục.

Hôm đó, công chúa mặc áo xanh cổ tròn, đội khăn chít đầu bằng vải sa quết sơn kiểu nữ, ăn vận rất mực nhũn nhặn, nom như một nữ quan thông thường, lại chỉ hành tẩu trong trướng ngự nên không khiến ai chú ý.

Kim thượng đổi mão miện, khoác áo choàng đỏ, thêm đai lưng ngọc, đi giày tơ, rồi lại lên sảnh chính điện giảng ngồi, phía sau có bình phong, công chúa bèn ngồi vào sau bình phong, ta hầu hạ bên cạnh nàng.

Tể thần tùy hành và quan dạy kinh, quan giảng thư, chư quan viên Quốc tử giám cùng học trò lần lượt bái tấu: "Thánh cung vạn phúc." Tiếp đó, hoàng đế ban tọa, mọi người đáp dạ, ngoài quan dạy kinh và quan giảng thư ra, ai nấy đều vào chỗ nghe giảng.

Chư học trò đều mặc cùng một kiểu áo dài màu trắng, ngồi trên chiếu đất trong ngoài đại điện, kính cẩn theo hoàng đế và tể thần nghe quan giảng thư Hồ Viện giảng kinh. Lúc ta vào điện đã chú ý quan sát, thấy Tào Bình ngồi ở vị trí dưới hiên ngoài điện.

Hồ Viện năm nay tuổi hạc sáu ba, tóc trắng mày dài, dung mạo cử chỉ đoan chính, công phục đỏ tím trên thân phẳng phiu tươm tất, gần như không chút nếp nhăn. Nghe nói bất kể ngày nắng gắt, khi ông giảng kinh tất sẽ cẩn thận thêm một lớp áo đơn bên trong công phục, ngồi trên sảnh đường, coi đó là lễ nghi của bậc nghiêm sư. Lúc này chỉ mới mở sách giở kinh mà trong ngoài điện đã im phăng phắc, từ kim thượng trở xuống không ai là không nghiêm mặt ngồi ngay ngắn, nín thở kính cẩn lắng nghe.

Nội dung ông giảng hôm nay là chương tiết trong "Dịch", mở đầu rõ nghĩa rồi tiến hành tuần tự từ cạn tới sâu, hình thức giảng giải tương đối sinh động. Ta đứng sau bình phong nghe say sưa, muốn nghe rõ thêm, bất tri bất giác tiến lên mấy bước, đi tới trước bình phong, khá gần ngự tọa của kim thượng.

Trương Mậu Tắc hầu bên ngự tọa trông thấy, nghiêng đầu ra hiệu bảo ta vào trong, kim thượng lại mỉm cười, chỉ vào bên cạnh ngự tọa, gật đầu với ta, ám chỉ ta có thể đứng đó nghe.

Có lẽ là yêu chim yêu cả lồng, xưa nay ngài đối xử với ta vẫn luôn rất có thiện ý. Ta cúi người tạ ơn, nán lại bên ngài.

Hồ Viện đương nói đến quẻ Càn, liếc nhìn kinh thư trước mặt, ông cao giọng đọc nguyên văn: "Càn, nguyên hanh lợi trinh."

Lời vừa nói ra, chúng thần tử kẻ sĩ trên điện đều nhìn nhau thất sắc, đến kim thượng cũng không khỏi kinh ngạc – Hồ Viện thế mà lại không tránh tên húy của kim thượng, dõng dạc đọc cả chữ "Trinh".

Người khiếp sợ nhất hẳn phải là ta. Ký ức u tối nhất khi còn nhỏ cũng là do nói thẳng chữ "Trinh" này mà ra.

Đối mặt với trăm nghìn ánh mắt kinh ngạc, Hồ Viện không hoảng không lo, chỉ chắp tay với kim thượng, giải thích bằng năm chữ: "Gặp văn không kiêng kị."

Sau đó, ông bình tĩnh giảng tiếp: "Nguyên, tức thiện lành mà trưởng thành; Hanh, tức tốt đẹp mà tụ họp; Lợi, tức chính nghĩa mà hòa hợp; Trinh, tức trung tâm của sự vật. Quân tử có đủ bốn đức này, tự cổ gọi là Càn, nguyên hanh lợi trinh..."

Còn chẳng kiêng dè mà nói liên tục ba lần chữ "Trinh".

Kim thượng cụp mắt ngẫm ngợi, sau cùng lựa chọn lắc đầu mỉm cười, còn đặc biệt liếc sang ta, ý cười sâu thêm phần nào.

Có lẽ ngài cũng nhớ đến chuyện ta bị phạt vì phạm húy năm đó. Ta một lần nữa khom người vái tạ ngài, cũng mỉm cười, trong lòng ít nhiều sinh cảm kích.

Năm ấy Nhậm Thủ Trung vừa thăng chức, đối đãi với thuộc hạ rất nghiêm, bắt được ta không tránh tên ngự là muốn giết một răn trăm, sau được Trương tiên sinh tương trợ, xin hoàng hậu góp lời với quan gia, khoan thứ cho ta. Sau nữa ta làm nhập nội nội thị, thường xuyên gặp mặt đế hậu, họ cũng từng nhắc tới chuyện này, nhưng đều hời hợt lấy làm bông lơn. Kim thượng xưa nay luôn khoan dung nhân ái, sẽ không thực sự định tội ai vì việc ấy, hôm nay đối với Hồ Viện cũng là như thế, trọng tội trong mắt người đời, ngài chỉ cười xòa cho qua.

Ta đứng thẳng, tiếp tục nghe giảng. Chừng nửa canh giờ sau, Hồ Viện khép sách tạm nghỉ, kim thượng ban thưởng canh trà cho giảng viên, chúng thần tử và học trò, còn đặc biệt lấy một chung, bảo ta bưng về cho công chúa. Ta nhận lấy, quay trở lại sau bình phong, nhưng lại chẳng thấy công chúa đâu.

"Công chúa quay về hậu điện thay y phục rồi ạ." Gia Khánh Tử hầu hạ sau bình phong báo ta hay.

Ta bất an, hỏi nó: "Công chúa đi một mình à?"

Gia Khánh Tử đáp: "Dẫn theo Vận Quả Nhi và Hương Duyên Tử ạ."

Ta đặt canh trà sang một bên, vòng ra ngoài điện kiểm tra trước – Tào Bình quả nhiên đã không còn tại chỗ.

Vội vã lui về hậu điện, cũng không thấy công chúa bên trong, ta tiếp tục rảo bước giữa phòng ốc Quốc tử giám, đi tìm nàng.

Hiện giờ, đến tạp dịch phụ trách vẩy nước quét nhà cũng đứng ngoài điện giảng nghe bài, trong sân trống không, vô cùng tĩnh lặng, ngay cả một người để hỏi thăm cũng chẳng gặp được. Mãi đến khi đi tới tàng thư viện ẩn hiện trong rừng trúc mới trông thấy bóng dáng Vận Quả Nhi và Hương Duyên Tử.

Hai đứa nó ngồi bên vườn hoa ngoài tàng thư viện chơi xóc tiền, thấy ta qua, lập tức đứng nghiêm, đại khái là bị thần sắc của ta dọa sợ, vẻ mặt chúng khiếp hãi, gọi: "Lương tiên sinh."

"Công chúa đâu?" Ta hỏi.

Hai con bé chần chừ, sau cùng một đứa ngoảnh đầu đánh mắt vào trong viện, một đứa nhẹ giọng đáp: "Công chúa ở bên trong đọc sách..."

Ta đi vào sân. Phòng ốc sảnh đường khép hờ cửa. Ta suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng vẫn chậm rãi vào trong.

Sảnh chính không cất sách, nhưng hai mé tả hữu đều có gian phòng sâu dài, dựng đầy từng dãy giá sách. Ánh sáng tối mờ, lại có giá sách che chắn nên chẳng thấy bóng dáng công chúa đâu.

Ta tập trung phân biệt, loáng thoáng nghe thấy trong căn phòng bên trái có tiếng vang nho nhỏ, bèn khẽ khàng đi sang.

Theo bước chân ta di chuyển, những giá sách san sát từ từ lướt bên thân lùi ra sau, trong không khí trôi nổi mùi mực cũ giấy cổ lâu năm, lốm đốm chấm sáng xếp thành hàng có thứ tự rọi vào phòng qua ô cửa sổ, ta lần lượt đi xuyên qua chúng, để mặc vụn sáng lướt qua mặt mình, tâm trạng chẳng khác gì tầm mắt thời khắc này, thoắt sáng thoắt tối.

Sau nữa, ta trông thấy họ, cô thiếu nữ áo xanh cùng cậu học trò áo trắng, đứng nơi sâu nhất trong phòng, mở một quyển trục hoành phi, mỗi người cầm một cạnh, quyển trục vừa vặn che trước mặt họ, như đang đứng chung một chỗ cùng xem.

Thế nhưng, đáng tiếc là họ chẳng phải loại học trò chăm chỉ đến thế. Tay họ run run, quyển trục tuột xuống, chậm rãi để lộ khuôn mặt hai người.

Họ nghiêng đầu về phía nhau, nhắm mắt, mi mày ngậm cười, hai đôi môi chạm vào nhau, khe khẽ nhẹ nhàng, bàn tay không cầm quyển trục quyến luyến đỡ lấy hông nhau.

Ta không sửng sốt như lần gặp phải vụ việc trong Nhu Nghi Điện nhiều năm trước. Suy đoán trong lòng lắng xuống, tâm cảnh cũng theo đó mà khôi phục bình yên, chỉ là nhất thời không biết phải làm sao, đứng lặng trong không gian hai người họ lơ là, hồi lâu sau mới phát hiện ra tay áo mình thấm lạnh.

Cuối cùng, ta quyết định lặng lẽ rời đi. Nhưng vừa quay người lại đã lập tức ý thức được sự tùy hứng của công chúa và Tào Bình hôm nay sẽ phải gánh chịu hậu quả nghiêm trọng cỡ nào.

Có hai người không tiếng động đứng sau lưng ta – Hoàng đế Đại Tống sắc mặt lạnh lẽo, và Trương Mậu Tắc theo hầu.


4. Cô hàn (*)

(*) Đây là từ ghép giữa "cô độc" và "hàn vi".

Sao họ lại ở đây? Là nghe thấy đối thoại giữa ta và Gia Khánh Tử sau bình phong hay là động thái vội vã ra ngoài dị thường của ta đã gợi lên sự hoài nghi trong họ?

Những nghi vấn này hiện lên chớp nhoáng trong đầu ta, nhưng đã chẳng kịp để mà nghĩ kĩ. Ta quỳ xuống trước kim thượng, rọi ánh mắt khẩn cầu về phía ngài, có điều không phải là cầu cho bản thân.

Kim thượng chẳng buồn lý tới, sải bước đi qua bên cạnh ta, rút phắt quyển trục trong tay công chúa và Tào Bình ra, giương tay lên ném "bốp" một tiếng nện vào giá sách bên cạnh. Quyển trục nặng nề rơi xuống đất, âm thanh vang lên giữa chốn cất sách tối tăm tĩnh mịch này nghe vô cùng đáng sợ.

Biến cố bất ngờ xảy ra khiến đôi tình nhân trẻ sững sờ trong chốc lát, người phản ứng lại trước là Tào Bình. Cậu cấp tốc quỳ rạp xuống trước mặt kim thượng, chắp tay: "Dượng, chuyện hôm nay là thần mạo phạm, không liên quan gì đến công chúa. Thần cam nguyện chịu bất kỳ hình phạt nào, chỉ xin dượng đừng trách phạt công chúa."

Công chúa bước lên hai bước rồi quỳ xuống, cố ý vô tình che chắn hờ cho Tào Bình, nói với phụ thân: "Cha, chuyện không liên quan tới chàng, là con gái hẹn chàng ra."

"Con hẹn nó ra?" Kim thượng lạnh lùng hỏi, "Hẹn thế nào?" Ngài quay sang liếc ta, lại hỏi: "Qua ngươi?"

Ta còn chưa mở miệng, Trương tiên sinh đứng bên cạnh đã biện giải thay ta: "Bệ hạ, nếu Hoài Cát dắt mối cho công chúa thì mới nãy khi ra ngoài tìm người, thần sắc thằng bé đã chẳng lo lắng như thế."

Công chúa cũng cất lời bảo vệ ta: "Không liên quan tới Hoài Cát, huynh ấy căn bản không hề biết gì về việc này."

Dường như kim thượng cũng chẳng muốn dẫn trọng điểm chú ý lên ta, ngài hơi cau mày, môi mím chặt, ánh mắt rét lạnh quay trở lại xuống mặt Tào Bình.

Ta để ý thấy tai ngài đỏ gay – lúc ngài phẫn nộ cực điểm sẽ xuất hiện hiện tượng như vậy.

"Mậu Tắc," Ngài nhìn chằm chằm Tào Bình, ra lệnh cho Trương tiên sinh bằng một giọng nói bởi bị đè nén mà trầm xuống rất thấp: "Ra ngoài, tìm hai người bên hoàng thành ty tới đây."

Ý ngài là gọi thị vệ hoàng thành ty đến, áp giải Tào Bình đi trị tội.

"Bệ hạ, tuyệt đối không thể làm vậy!" Ta vái lạy ngài, van lơn: "Xin chớ để người ngoài vào, bằng không danh dự của công chúa sẽ bị hủy hoại trong khoảnh khắc mất."

Trương tiên sinh cũng khom người với ngài, khuyên nhủ: "Bệ hạ, hiện giờ tể chấp nhị phủ và các văn thần khác đều đang ở Quốc tử giám, nếu đột ngột cho đòi người bên hoàng thành ty vào, quần thần tất sẽ hỏi rõ nguyên nhân, việc này truyền ra nhất định sẽ thành điều tiếng, đài gián sẽ đồng loạt vạch tội, truy cứu trách nhiệm của những người liên quan, bị vạ lây trong tương lai e rằng không chỉ có hai người công chúa và Tào công tử."

Kim thượng chẳng ừ hử gì, lồng ngực phập phồng chậm rãi như đang điều chỉnh hô hấp, tận sức tránh cho lửa giận bùng nổ.

Trương tiên sinh thấy vậy, lại nhẹ nhàng kiến nghị: "Hiện giờ, Hồ phu tử hẳn đã tiếp tục giảng kinh, mời bệ hạ về điện thôi ạ. Rời đi quá lâu sẽ có người đi khắp nơi tìm kiếm."

Kim thượng chỉ lặng thinh, một lát sau, rốt cuộc cũng mở miệng, nói với Tào Bình: "Hiện tại ta không xử phạt ngươi là bởi tạm thời chưa nghĩ ra phải dùng hình phạt nào mới đủ để trừng trị tội lỗi của ngươi... Ngươi tự giải quyết đi."

"Dạ..." Tào Bình gượng nhếch một nụ cười xám xịt, quỳ rạp xuống bái lạy, "Tạ ơn dượng."

Trước nay kim thượng vẫn luôn đối xử rất tốt với Tào thị, đặc biệt cho phép bọn Tào Bình hành lễ người nhà với ngài, gọi ngài là dượng khi ở riêng. Nhưng lúc này đây, nghe Tào Bình gọi thế lại gợi nên cho ngài tâm trạng khác hẳn.

"Dượng?" Ngài cười khẩy, quay sang hỏi Trương tiên sinh: "Nàng có biết việc này không?"

Trương tiên sinh ngẩn người, lập tức hạ bái: "Bệ hạ, hoàng hậu hoàn toàn không biết gì về việc này."

Vào thời khắc vi diệu thế này, Trương tiên sinh trả lời nhanh chóng như vậy cũng chẳng phải là quá sáng suốt. Hơi lạnh luồn sâu trong mắt kim thượng, ngài vặn hỏi thầy: "Ngày nào ngươi cũng đi gặp nàng à? Thế nên nàng biết gì, không biết gì, nói gì, nghĩ gì, ngươi đều tường tận hết?"

Trương tiên sinh không dám đáp lại, chỉ im lặng.

Một lần nữa lạnh lùng đưa mắt quét một lượt những người quỳ trên đất, kim thượng phất tay áo, xoay người rời đi.

Đợi ngài ra khỏi cửa rồi, Trương tiên sinh mới đứng lên, nâng công chúa và Tào Bình dậy, nói với Tào Bình: "Tào công tử mau theo tôi về nghe giảng đi thôi, đừng để bị người khác nhìn ra khác thường."

Sau đó, thầy lại dặn ta: "Hoài Cát, cậu ở đây với công chúa trước đã, đợi chốc nữa hai người hẵng ra."

Sau khi về cung, kim thượng lập tức cấm túc công chúa trong Nghi Phượng Các, Vận Quả Nhi và Hương Duyên Tử thì bị đuổi sang lao dịch ở Dao Hoa Cung nơi hậu phi bị phế trú ngụ, nhưng về phần ta, nhất thời lại chưa có bất kỳ hình phạt nào.

Ta kể lại sự việc xảy ra trong Quốc tử giám với Miêu thục nghi, cũng thuật sơ qua việc công chúa và Tào Bình có hảo cảm với nhau, nhưng không đề cập chi tiết đến mấy lần họ bên nhau và chuyện điền từ xướng họa, chỉ nói họ chạm mặt trong các bữa tiệc rượu rồi vô tình gặp lại ở tàng thư viện.

Nhưng chỉ thế thôi cũng đã đủ làm Miêu thục nghi hết hồn hết vía. Đầu tiên, bà trách móc ta không ngớt tội không theo dõi công chúa sát sao, sau đó lại vội vã đi tìm hoàng hậu thương nghị. Khi trở về, vẻ mặt bà u sầu, nói: "Sau khi biết việc này, hoàng hậu đã đi Phúc Ninh Điện cầu kiến quan gia, nhưng quan gia giận dữ khôn nguôi, từ chối không gặp."

Công chúa bị nhốt trong phòng, cả ngày chẳng thiết tha gì đến ăn uống, không phải nức nở thương tâm thì cũng là đờ đẫn nhìn ra ngoài cửa sổ hồi lâu. Thỉnh thoảng ta bưng trà nước vào khuyên nàng dùng bữa, nàng chẳng thèm lý đến, chỉ kéo ta hỏi: "Tào Bình sao rồi?"

Ta đáp không biết, nước mắt của nàng tức khắc lại rơi xuống: "Có phải chàng đã chết rồi không? Cha nói sẽ không bỏ qua cho chàng..."

Để trấn an nàng, ta đồng ý nghĩ cách dò la tin tức của Tào Bình.

Ta tìm đến Trương Thừa Chiếu, bảo hắn mượn cớ xuất cung, tới nhà Tào Dật hỏi thăm. Sau khi trở về, hắn nói mà líu lưỡi liên tục: "Khủng khiếp hết sức, tôi còn chưa tới gần cửa chính nhà ông ấy đã thấy chung quanh bao vây một đống người của hoàng thành ty, không thể làm gì khác đành trở về... Có điều họ cũng chỉ mặc thường phục, có lẽ quan gia chỉ muốn giám thị trông chừng Tào Bình chứ không muốn để người ngoài biết."

Nhân lúc này, ta hỏi hắn: "Công chúa trao đổi tin tức với Tào Bình có phải do cậu nhúng tay vào giúp không?"

Hắn khiếp đảm nhảy dựng lên: "Không bằng không chứng, cậu đừng có mà vu oan cho người khác!"

Ta cười khẩy: "Cậu biết từ trước rằng công chúa sẽ gặp mặt Tào Bình ở Quốc tử giám, ngày đó mới mượn cớ không đi chính là vì sợ nếu xảy ra bất trắc sẽ trốn không thoát được can hệ."

Hắn vẫn không chịu thừa nhận, phủ nhận kịch liệt quá lại thành ra mất tự nhiên. Ta không truy vấn nữa, chuyện phải lo lắng bây giờ quá nhiều, không rảnh truy cứu việc này, huống hồ, trong vụ việc giữa công chúa và Tào Bình, tự bản thân ta cũng chẳng phải không thẹn với lương tâm.

Công chúa không ăn không uống, nhanh chóng trở nên cực kỳ suy nhược. Mãi đến khi hoàng hậu đích thân đến thăm, ôn tồn khuyên bảo, nàng mới miễn cưỡng bỏ bụng chút cháo loãng.

"Nương nương," Bát cháo còn chưa ăn xong, nàng đã lại nước mắt ròng ròng, "Cha sẽ xử trí Tào ca ca ra sao ạ?"

Hoàng hậu ôm lấy nàng, vỗ lưng nàng nhè nhẹ, dịu dàng đáp: "Không sao đâu... Nương nương sẽ khuyên cha con, thằng bé sẽ không sao hết..."

Nhưng thực tế, quyết định cuối cùng của kim thượng sẽ thế nào, bà cũng không nắm chắc. Sau khi ra khỏi phòng công chúa, ta nghe thấy hoàng hậu nói với Miêu thục nghi: "Em trai ta biết được việc này đã bí mật dâng tấu vào cung tự hặc, xin bãi quan chịu tội, nhưng quan gia thiêu hủy tấu chương, không trả lời, e là không muốn việc này truyền ra... Ta cũng hạ lệnh không cho phép cung nhân bàn tán về lệnh cấm túc công chúa của quan gia, bằng không sẽ nghiêm phạt... Chỉ là, muốn khuyên quan gia nguôi giận thì còn phải chờ thêm một thời gian nữa. Mấy ngày nay, rất nhiều thần tử dâng sớ xin ngài lập hoàng tử, ngài đã phiền não sẵn lại càng thêm sầu muộn, long thể cũng bất an..."

Kể từ khi bát công chúa mất, suốt mười mấy năm nay, tần ngự của kim thượng chẳng những không sinh hạ được hoàng tử kế tiếp mà thậm chí đến công chúa cũng không thêm được mụn nào. Tuy Thập Tam Đoàn Luyện là con nuôi của hoàng đế, nhưng bởi trước sau kim thượng vẫn hi vọng hậu cung sinh con trai nên vẫn chưa chính thức hạ chiếu xác nhận thân phận hoàng tử của Thập Tam Đoàn Luyện. Nay, chư thần thấy tuổi tác hoàng đế đã dần cao, lại không có con trai thân sinh, bèn lũ lượt dâng sớ xin lập hoàng tử mà kim thượng vẫn trì hoãn đó giờ, điều này cũng trở thành một tâm bệnh gây nên cho ngài vô vàn rối nhiễu.

Sau đó, một tin tức xấu khác truyền tới, kim thượng không lệnh Trương Mậu Tắc vào triều hay tùy hành hầu hạ nữa, tùy tùng phục dịch hằng ngày đổi thành nhập nội đô tri Sử Chí Thông và phó đô tri Võ Thế Long mà hoàng hậu tiếp xúc không nhiều.

Mặc cho Miêu thục nghi khẩn cầu cỡ nào, liên tiếp hơn mười ngày, kim thượng vẫn không gặp mặt công chúa. Song, đúng lúc Miêu thục nghi đã cận kề tuyệt vọng, Sử Chí Thông bỗng tới Nghi Phượng Các, thông báo: "Quan gia muốn đến thăm công chúa, mời Miêu nương tử chuẩn bị tiếp giá."

Thế rồi, y kể rõ đầu đuôi chuyện này như sau:

Mới đây, ngự sử trung thừa Trương Biện thường xuyên dâng sớ vạch tội trọng thần nhị phủ, hôm nay kim thượng triệu kiến ông, hỏi: "Khanh vốn cô hàn, cớ sao lại cứ động chạm đến cận thần như thế?"

Trương Biện vái dài, đáp: "Thần không cô hàn mà chính bệ hạ mới cô hàn đấy ạ."

Kim thượng hỏi giải thích ra sao, Trương Biện nói: "Thần một thân áo vải mà còn bẩm được tới tận nơi đây, làm bạn với bệ hạ, trong nhà có vợ con, ra ngoài có thân thích, mà bệ hạ thì trong không hiền thần, ngoài không danh tướng, lên triều đình bị cô lập, về hậu cung cũng chỉ có một, hai hậu phi hợp ý vừa lòng, còn chẳng phải là cô hàn?"

Kim thượng nghe vậy buồn bực không vui. Trở lại tẩm điện, trầm mặc ngẫm ngợi hồi lâu rồi quyết định đích thân đến Nghi Phượng Các thăm công chúa, bèn lệnh Sử Chí Thông tới truyền khẩu dụ trước.

Miêu thục nghi nâng tay ngang trán bái tạ không dứt, mừng rỡ khôn xiết khi lời nói của Trương trung thừa đã đả động được quan gia nhớ đến tình thân máu mủ với công chúa. Sau đó bà lo liệu mọi bề, sai người chỉnh lý phòng ốc trong gác, lại mệnh Hàn thị và chúng thị nữ đi hầu công chúa rửa mặt chải đầu.

Nhưng công chúa từ chối tất cả, uể oải nằm trên giường, mặt vương đầy dấu lệ.

Lúc kim thượng giá đáo, công chúa vẫn chưa dậy. Kim thượng hơi do dự, cuối cùng vẫn vào phòng nàng thăm.

Thấy sắc mặt công chúa trắng bệch, tiều tụy khôn thấu, kim thượng lập tức rướm lệ. Ngài lặng lẽ quay đầu lau đi, lại tới bên giường công chúa ngồi xuống, mỉm cười gọi nàng: "Huy Nhu, cha tới thăm con đây. Con đã khá hơn chút nào chưa?"

Công chúa mờ mịt nhìn ngài, cất tiếng gọi mơ hồ: "Cha."

Kim thượng đáp lời, thần sắc thoáng ló rạng.

Công chúa dần có ý thức, gắng gượng ngồi dậy, lại nói với phụ thân một câu: "Con không muốn lấy Lý Vĩ."

Kim thượng chán nản, song cũng không bác bỏ, quay đầu sai Hàn thị mang một bát cháo tới, tự tay nhận lấy, hòa nhã bảo công chúa: "Lâu lắm rồi chưa ăn phải không? Nào, ăn cháo đi đã, ăn xong chúng ta lại nói."

Ngài cầm thìa, bón từng miếng cho công chúa, công chúa cũng biểu hiện hết sức bình tĩnh, nuốt từng miếng xuống. Đợi ăn xong cháo rồi, kim thượng vừa đặt bát sang một bên, công chúa đã lập tức nhắc lại: "Con không muốn lấy Lý Vĩ."

Kim thượng thở dài, như muốn khuyên bảo: "Huy Nhu..."

Công chúa lại ngắt lời ngài, hỏi vấn đề nàng quan tâm nhất: "Cha đã làm gì Tào Bình rồi?"

Kim thượng nắm tay nàng: "Huy Nhu, con nghe cha nói..."

Công chúa bỗng vươn hai tay về phía ngài, ôm cổ phụ thân như khi còn nhỏ, cằm đặt nhẹ lên vai ngài, ngăn ngài nói hết câu, bản thân mình cũng im lặng thật lâu.

Động tác thân mật này tựa hồ khiến kim thượng cảm động, cũng nhẹ nhàng ôm lấy con gái.

Ta đứng sau lưng kim thượng, từ góc độ này có thể thấy rõ khuôn mặt công chúa.

Chính khi ấy, con mắt mới nãy còn đờ đẫn của nàng lóe lên vài tia sáng u tối, hé ra một nụ cười lạnh lẽo quái gở, nàng kiên định nhấn rõ từng chữ bên tai phụ thân: "Cha, nếu cha giết Tào Bình, con sẽ giết đứa con gái duy nhất của cha!"

Lưng kim thượng tức thì run lên dữ dội như bị ai vỗ mạnh một chưởng, lại cũng như đột ngột phát cơn nôn mửa. Nhưng ngay sau đó ngài đã bình ổn lại, không còn phản ứng dị thường gì nữa, tiếp tục ôm công chúa, một lúc lâu sau mới chậm rãi buông ra, tiếp đó, không nói một lời, xoay người đi ra ngoài.

Ta để ý thấy trong quá trình ra cửa, ngài một mực lấy tay áo che miệng.

Ta đi theo đằng sau ngài, tiễn ngài ra tận cửa gác. Ngài đi bước thấp bước cao, có phần lảo đảo, ta lại gần dìu ngài, bị ngài vung tay áo đẩy ra. Chính vào khoảnh khắc ấy, ta phát hiện ra, khóe miệng ngài bỗng đâu xuất hiện vết máu đỏ tươi.

Ta còn đang lưỡng lự có nên mở miệng nhắc nhở nội thị đi cùng ngài luôn bây giờ không, hai chân ngài đã nhũn ra, ngã xuống ngay trước mặt ta.


5. Ốm bệnh

Kim thượng nhanh chóng được đưa về Phúc Ninh Điện. Lúc Miêu thục nghi dẫn theo ta chạy tới tạ tội, ngài đã tỉnh lại, bên người vây đầy thái y Trương Mậu Tắc mời đến, hoàng hậu cũng có mặt trong điện.

Khi ấy, hoàng hậu tự mình rót bát thuốc, đưa tới trước mặt ngài, đang định khuyên ngài uống thì bị ngài giơ tay lên cản, bát thuốc lật úp, nước thuốc tạt hoàng hậu ướt đẫm.

"Ta không bị bệnh!" Ngài nổi nóng bực dọc nói.

Hoàng hậu nín thinh, tạm thời chưa bận tâm đến việc thay y phục, chỉ bảo nội nhân dọn bát thuốc xuống.

Miêu thục nghi thấp thỏm tiến lên, hạ bái thỉnh tội thay con gái lớn. Kim thượng thoáng liếc bà, chỉ đáp bằng một chữ: "Miễn." lại nhìn sang ta, hỏi: "Ngươi có nói với Huy Nhu chuyện của ta không?"

Ta nghĩ hẳn ý ngài là chuyện ngất xỉu ngoài Nghi Phượng Các, bèn đáp: "Quan gia đi rồi, công chúa lại nằm xuống chợp mắt. Thần định đợi công chúa tỉnh lại rồi mới báo người việc này, đến lúc đó nhất định người sẽ qua đây thỉnh tội với quan gia ạ."

Kim thượng xua tay: "Để nó nghỉ ngơi an ổn đi, đừng nói cho nó biết."

Mấy ngày sau đó, kim thượng vẫn từ chối uống thuốc, mà khí sắc và tinh thần thì đều ngày một sa sút.

Chẳng qua bao lâu, năm mới lại tới. Theo thường lệ, triều đình quốc nội mà xảy ra chuyện lớn không lành thì năm sau sẽ đổi niên hiệu. "Chí Hòa" hiện giờ hiển nhiên đã là một niên hiệu không lành, đổi được hai năm, mở đầu bằng cái chết của Trương quý phi, kết thúc tại trận ốm bệnh của kim thượng, bởi vậy nên, bước sang một năm hoàn toàn mới này, niên hiệu lại đổi sang một cái hoàn toàn mới khác – Gia Hựu.

Nhưng niên hiệu mới cũng chẳng lập tức mang lại vận may cho hoàng đế, sau tân niên, bệnh của ngài ngược lại còn có xu thế trở nặng.

Mồng một tết Gia Hựu năm thứ nhất, kim thượng ngự Đại Khánh Điện, xem đại triều hội. Sau khi bách quan xếp hàng, nội thị cuộn rèm che trước ngự tọa lên, cho chư thần diện kiến hoàng đế, đúng lúc ấy kim thượng lại trúng cơn cảm gió váng đầu, mũ mão lệch đi, nghiêng sang một bên. Người xem kinh hãi, kẻ hầu hai bên vội vã buông rèm, dùng ngón tay bấm nhân trung kim thượng mới cứu tỉnh được ngài. Một lần nữa cuốn rèm, cấp tốc hành lễ xong, chúng hoạn giả đỡ ngài trở về tẩm điện.

Sau buổi chúc mừng năm mới, sứ giả Khiết Đan vào chầu, theo thường lệ, triều đình bày rượu ban tiệc ở Tử Thần Điện. Lúc sứ giả vào tới đình, kim thượng chợt cao giọng hét: "Mau triệu sứ giả lên điện, trẫm suýt nữa không gặp được họ rồi!" lời nói kế tiếp cũng lộn xộn, chúng nội thần hiểu là bệnh tật kim thượng phát tác, lập tức dìu ngài về cung, để tể thần lấy danh nghĩa kim thượng chỉ dụ sứ giả Khiết Đan, giải thích là đêm trước trong cung uống rượu quá nhiều, hôm nay không thể đích thân tới tiệc, sai đại thần thưởng cỗ ở trạm dịch, vẫn trao quốc thư.

Kể từ đó, kim thượng triền miên ốm bệnh trên giường, không thể lên triều. Trải qua tể chấp yêu cầu, đổi thành quan viên nhị phủ đến tiểu điện Nội Đông Môn gần nội cung nhất sinh hoạt, gặp kim thượng mỗi buổi sáng sớm ở đó.

Tình hình của công chúa cũng chẳng mấy tốt đẹp. Nàng vẫn trong trạng thái nửa tuyệt thực, ta và Hàn thị chỉ có thể dỗ nàng uống chút cháo vào thời điểm nàng mơ màng, lâu dần, bộ dáng nàng cũng y như mắc bệnh nặng. Miêu thục nghi mời thái y tới kê thuốc mấy lần, nhưng công chúa lại thà chết không uống, cả ngày không khóc cũng mê man, chẳng có chút tinh thần nào.

Ta đương hết đường xoay sở thì bỗng nghĩ đến chuyện Trương tiên sinh châm cứu cho Thu Hòa. Tuy tình trạng của công chúa khác với Thu Hòa khi đó nhưng chưa biết chừng châm cứu cũng có thể vực lại chút tinh thần cho nàng, vả lại, Trương tiên sinh ở Ngự dược viện đã nhiều năm, y thuật hẳn cũng rất cao minh, hỏi ý kiến thầy dẫu sao cũng vẫn tốt hơn.

Song liên tiếp hai ngày, ta đến tìm nhiều lần từ Ngự dược viện đến tận Phúc Ninh Điện mà vẫn không gặp được Trương tiên sinh. Sau, ta cảm thấy quái lạ, bèn hỏi một tiểu hoàng môn Ngự dược viện hướng đi của Trương tiên sinh. Cậu ta không biết ta, quan sát rất cảnh giác, hỏi: "Anh là thuộc hạ của Thạch đô tri?"

Thạch đô tri chỉ Thạch Toàn Bân, thân tín của Trương quý phi năm xưa, sau khi quý phi hoăng, kim thượng đã thăng y lên làm phó đô tri.

Tuy ta và Trương tiên sinh quen biết đã nhiều năm, nhưng thường ngày nếu không có việc gì lớn, hai ta cũng chẳng mấy khi gặp mặt riêng, bởi vậy nên hoạn giả dưới quyền thầy không phải ai cũng nhận ra ta. Đối mặt với câu hỏi của cậu tiểu hoàng môn này, ta lắc đầu phủ nhận, nói cho cậu ta biết: "Tôi là Lương Hoài Cát."

"Ồ, hóa ra là Lương cao phẩm, tôi biết anh." Cậu ta yên lòng, mỉm cười báo với ta: "Trương tiên sinh xuất cung rồi ạ."

Ta truy vấn: "Đi đâu?"

Cậu ta trả lời: "Tôi cũng không biết. Tiên sinh nói trước khi đóng cửa cung sẽ trở về, anh đợi đến lúc đó hẵng quay lại."

Xế chiếu, ta quay lại, quả nhiên gặp được Trương tiên sinh. Thầy phong trần mệt mỏi, mắt vằn vện tia máu, hẳn là do gần đây phải vất vả ngược xuôi.

Thầy thấy ta, lập tức dẫn ta vào buồng làm việc của mình, hỏi: "Là chuyện của công chúa à?"

Ta gật đầu, thuật lại tình hình của công chúa cho thầy nghe, hỏi thầy có thể làm châm cứu không, thầy nói: "Công chúa đây là mắc tâm bệnh, châm cứu không có tác dụng gì lớn... Cậu trở về nói cho người biết, người nhất định sẽ có cơ hội gặp lại Tào Bình, thế nên bây giờ phải khỏe lên. Ăn nhiều vào tất sẽ bình phục."

"Thế...là lừa người ạ?" Ta nghi hoặc hỏi.

Thầy cười nhạt nhòa: "Không tính là lừa. Họ sẽ không được như nguyện, nhưng nhất định vẫn còn cơ hội gặp lại."

Thấy thầy không có ý định giải thích cặn kẽ, ta cũng thôi hỏi tiếp, nhưng không nhịn được tỏ ra hiếu kỳ với nguyên nhân thầy xuất cung: "Tiên sinh xuất cung là có liên quan đến bệnh tình của kim thượng ạ?"

Thầy im lặng hồi lâu, sau cùng vẫn tiết lộ một chút cho ta: "Ta đi gặp Thập Tam Đoàn Luyện và Phú tướng công."

Tể tướng hiện thời là hai vị đại thần bị điều ra ngoài trước đây, Phú Bật và Văn Ngạn Bác.

Nửa năm trước, tể tướng Trần Chấp Trung bị ngự sử vạch tội, trước luận việc ông cho phép truy phong Ôn Thành vượt quá lễ chế, sau chỉ trích ông dung túng tỳ thiếp đánh chết hầu gái, "Vào không hết lòng cần mẫn, ra không biết giữ nếp nhà", thậm chí còn có người nói ông tư thông với con gái mình. Cái chuyện nghe rợn cả người này chẳng biết là thật hay giả, nhưng đủ loại nguyên nhân gộp vào cuối cùng cũng dẫn đến việc Trần Chấp Trung bãi tướng.

Khi đó, hầu như tất cả mọi người đều cho rằng kim thượng sẽ nhân cơ hội này cất nhắc Vương Củng Thần. Bởi sau khi y đề xướng bàn bạc truy phong Ôn Thành, kim thượng đã lập tức thăng y lên làm tam ty sứ, giống như khi xưa ngôn quan nói lúc hặc Trương Nghiêu Tá, vị trí ấy chỉ cách nhị phủ một bước ngắn.

Nhưng kim thượng lại ra một quyết định nằm ngoài dự liệu của mọi người, tuyên bố thăng Phú Bật và Văn Ngạn Bác làm tướng, bổ Vương Củng Thần làm tuyên huy bắc viện sứ, phán Tịnh châu (*).

(*) Có thể hiểu phán châu như chức trợ lý tể tướng, kiêm chưởng quản một châu dưới hình thức gián tiếp, tri châu đứng hàng tam phẩm, phán châu đứng hàng nhị phẩm.

Phú Bật sớm có hiền danh, nếu không có vụ gấm đèn lồng thì Văn Ngạn Bác cũng thuộc nhóm lương thần, thế nên sĩ phu nghe tin tức này lên triều đều chúc mừng lẫn nhau.

Bây giờ nghe Trương tiên sinh nhắc đến Thập Tam Đoàn Luyện và Phú tướng công, ta đã có thể đoán được nguyên do trong đây: Kim thượng không khỏe, hoàng hậu và chư thần ắt phải tính đến chuyện thái tử, mà thân phận hoàng tử của Thập Tam Đoàn Luyện thì chưa xác lập, tương lai lỡ xảy ra biến cố, cần phải có sự ủng hộ của tể tướng mới có thể lên ngôi. Bởi vậy nên Trương tiên sinh bôn ba suốt mấy ngày nay hẳn là để truyền báo tin tức cho hoàng hậu, xin Phú Bật tán thành Thập Tam Đoàn Luyện lên ngôi trong tương lai, đồng thời cũng bảo Thập Tam Đoàn Luyện chuẩn bị thật tốt việc đăng cơ.

"Đây là ý của hoàng hậu ạ?" Ta thử hỏi dò.

"Phú tướng công và hoàng hậu đều có ý này." Trương tiên sinh đáp, dừng lại một thoáng rồi nói tiếp: "Thực ra nếu bây giờ kim thượng có thể tự quyết định thì kết quả cũng sẽ chỉ như vậy."


6. Châm cứu

Sau khi trở về, ta làm theo lời Trương tiên sinh, nói với công chúa nàng hãy còn cơ hội gặp mặt Tào Bình. Nàng vừa nghe đã lập tức có phản ứng, tràn ngập hi vọng hỏi: "Thật ư?"

Ta gật đầu: "Trương tiên sinh nói với thần thế... Chắc là hoàng hậu nói với thầy."

Những câu này như tấm gương trên bàn trang điểm trong phòng nàng, khúc xạ ánh sáng ngoài màn che rọi vào con ngươi xám xịt đã lâu của nàng. Nàng mở to mắt hỏi ta có biết cơ hội này là vào lúc nào không, chợt lại thấy ngượng ngùng, nhanh chóng cụp mi giấu đi ánh mắt.

Ta mang gương đồng lại, cười mỉm nói: "Lỡ mà hoàng hậu bảo Tào công tử tới gặp công chúa ngay ngày mai, công chúa cũng bằng lòng gặp cậu ấy như thế này à?"

Nàng trông thấy dung nhan tiều tụy của mình trong gương, bị dọa đến hét lên thất thanh, đẩy gương ra không dám xem nữa.

Ta hợp thời bưng đồ ăn và thuốc thang đến trước mặt nàng, lần này, nàng không cự tuyệt. Sau khi dùng bữa uống thuốc với thái độ nghiêm túc chưa từng có, nàng ôm trong lòng giấc mộng về tương lai tươi đẹp ngủ thật say.

Canh tư, có người gõ cửa gác. Giờ ấy ta đã tỉnh, bèn đứng dậy ra xem, thấy là hoạn giả trung cung phái tới đưa tin.

"Hoàng hậu mời Miêu nương tử nhanh chóng đến Phúc Ninh Điện, có chuyện quan trọng cần bàn bạc." Y nói, trông y mặt đỏ tía tai, hẳn là đi rất khẩn trương.

Miêu thục nghi nghe tiếng đi ra, cùng ta nhìn nhau, trong mắt phủ kín kinh sợ.

"Là...quan gia?" Bà hỏi, giọng run rẩy.

"Quan gia lại ngất xỉu trong điện ạ," Nội thị hạ giọng nói, "Thái y cho uống thuốc, đốt ngải rồi mà ngài vẫn chưa tỉnh."

Miêu thục nghi càng thêm hoảng hốt, bảo ta: "Hoài Cát, mau, đi theo ta xem xem."

Đợi đến khi hai ta chạy tới Phúc Ninh Điện, trong đại điện đã tụ họp đầy người. Ngoài hoàng hậu và đám thái y đang quỳ dưới đất ra, còn có vài vị đô tri, phó đô tri và Trương tiên sinh, cùng An Định quận quân Chu thị và Thanh Hà quận quân Trương thị thường xuyên phụng dưỡng kim thượng trong hai năm qua.

Ta còn phát hiện ra cả Thu Hòa. Cô đứng sau màn che trong điện, cách những người còn lại rất xa, tư thái vẫn khiêm nhường trước sau như một, tựa một cái bóng được phác ra bằng mực đạm.

Ta đi qua hỏi cô tình hình ở đây, cô nhỏ giọng thuật: "Gần đây, quan gia gặp tể chấp vốn là vào canh năm, nhưng hôm nay quan gia dậy rất sớm, cho vời tôi qua chải đầu. Chải xong xuôi, Thạch đô tri tiến vào trước hai vị Sử, Võ, đón ngài sang tiểu điện Nội Đông Môn, vừa đỡ ngài đi vừa nói chuyện với ngài. Quan gia vừa đi tới cửa điện thì bỗng thở dốc nặng nề, xoa xoa ngực như rất đau đớn. Đợi đến lúc tôi chạy lại, ngài đã ngã xuống đất ngất đi rồi."

"Thạch đô tri?" Người hầu quan gia đi tiểu điện Nội Đông Môn gặp tể chấp mấy ngày nay không phải là Thạch Toàn Bân, nhưng vì sao hôm nay y lại tới sớm như vậy? Ta hỏi khẽ Thu Hòa: "Cô có nghe được y nói gì với quan gia không?"

Thu Hòa đáp: "Thoạt đầu y chỉ nói mấy câu hỏi han ân cần, sau nữa thì đi đã xa, tôi không nghe được nữa. Ban nãy hoàng hậu cũng hỏi Thạch đô tri, y nói chỉ là trao đổi về đạo dưỡng sinh với quan gia chứ cũng không dám nói thêm gì khác."

Ta ngẩng đầu nhìn Thạch Toàn Bân, y mặt không biểu cảm cụp mắt đứng đó, thần sắc nhìn không ra có gì khác thường.

Lúc này, Du sung nghi cũng đã tới, hoàng hậu bèn cất lời nói với hai người Miêu, Du: "Quan gia đột ngột ngất xỉu, thuốc thang không hiệu nghiệm, thái y bó tay không có biện pháp nào. Mới rồi Mậu Tắc kiến nghị châm cứu, nhưng phải hạ châm sau đầu, thái y không ai dám chữa chạy cách đó. Mậu Tắc làm việc ở Ngự dược viện nhiều năm, từng học y thuật, trước đây từng chữa loại bệnh này, để tránh làm lỡ thời cơ trị liệu, đã tự tiến cử hành châm cho quan gia. Không biết ý hai vị thế nào?"

Hai vị nương tử nhìn nhau, nhất thời chưa đáp, mà Thạch Toàn Bân đứng một bên lại mở miệng: "Huyệt vị sau đầu không phải chuyện đùa, lỡ mà sơ sẩy, nhẹ thì mù mắt, nặng thì khó lường... Xin nương tử suy xét cẩn trọng."

Nghe xong, hai vị nương tử lại không dám tùy tiện tỏ thái độ, mặt lộ vẻ khó xử, nín thinh không nói. Trương Mậu Tắc thấy vậy, tiến lên nói với họ: "Xin nương tử yên tâm, thần cũng chẳng phải lần đầu gặp bệnh trạng này, cũng từng nhiều lần châm cứu não bộ cho người bệnh, chưa bao giờ thất thủ. Nếu châm cứu xong mà làm tổn hại đến quan gia, thần cam nguyện chịu phạt lăng trì."

Thạch Toàn Bân hờ hững vặc lại thầy: "Cái mạng ti tiện của bọn hoạn giả hai ta mà đánh đồng được với thiên tử chí tôn sao?"

Có lẽ là sợ họ xung đột với nhau lại đâm nóng tính, Du sung nghi bèn thưa với hoàng hậu: "Thiếp và Miêu tỷ tỷ cũng chỉ là tần ngự của quan gia, chuyện quan trọng, đã có hoàng hậu ở trên thì không dám nhiều lời, kính xin hoàng hậu làm chủ ạ."

Miêu thục nghi cũng hùa theo: "Đúng, đúng. Kính xin hoàng hậu quyết định, chúng thiếp nghe lệnh là được."

"Nói vậy, hai người cũng không có dị nghị gì với chuyện châm cứu phải không?" Hoàng hậu hỏi.

Hai vị nương tử thoáng sửng sốt, nhưng vẫn gật đầu đáp dạ.

Hoàng hậu lại quay sang Chu, Trương hai vị quận quân: "Hai cô cũng là nương tử hậu cung, kể ra cũng là người nhà của hoàng đế, có cảm thấy quyết định của ta có chỗ nào không ổn không?"

Tuy rất phân vân, song cuối cùng hai vị quận quân cũng tỏ vẻ đồng ý với quyết định của hoàng hậu: "Tất cả đều nghe hoàng hậu phán đoán ạ."

Hoàng hậu tức khắc hạ lệnh cho Trương tiên sinh: "Mậu Tắc, vào buồng châm cứu chữa trị cho quan gia."

Trương tiên sinh lĩnh mệnh, đang định đi vào thì nghe Võ Kế Long phân phó kẻ dưới đóng cửa cung trước Phúc Ninh Điện, thầy liền xoay người, cất cao giọng hỏi: "Chẳng có gì để lo lắng thì cớ sao phải đóng cửa cung khiến trong ngoài sinh nghi?"

Võ Kế Long im bặt, ngay sau đó lại lệnh nội thị đi đóng cửa cung trở về.

Người được hoàng hậu cho phép vào buồng trong ít đi một phần, ngoài Trương tiên sinh ra, chỉ có Miêu, Du, Chu, Trương bốn vị nương tử và Thu Hòa có nhiệm vụ cởi búi tóc cho quan gia.

Ta và những người còn lại đợi trong sảnh. Trương tiên sinh bắt đầu trị liệu, chẳng biết kết quả ra sao, trong ngoài buồng ngủ đều im phăng phắc, không ai có cử động dư thừa nào, ta cũng duy trì tư thế đứng bất động, tựa như người cầm kim đâm lên đầu kim thượng không phải là Trương tiên sinh mà là chính ta, rất sợ chỉ nhúc nhích chút ít thôi cũng sẽ đâm đứt sợi tơ nối mệnh không thể coi thường.

Sau nữa, phá vỡ bầu không khí tĩnh lặng như vũng nước tù này là một tiếng thét kinh hãi. Như đột ngột trông thấy cảnh tượng rùng rợn khi chưa chuẩn bị gì, tiếng thét ấy ngập ngụa hoảng sợ và bất an cực độ. Tiếp đó là hai, ba tiếng thét của nữ tử khác vang lên.

Ta không kịp nghĩ ngợi, lập tức chạy vào buồng ngủ, thấy kim thượng đầu tóc rối bù đứng trước giường, tay cầm một con dao sắc bén, chĩa thẳng vào Trương Mậu Tắc đứng trước mặt ngài. Dưới đất rải rác hơn mười cây kim châm.

Mà Trương tiên sinh thì lẳng lặng nhìn ngài, tay phải hãy còn đang cầm một cây kim dài.

Mấy vị nương tử bị dọa đến mặt cắt không còn hạt máu, đã rụt vào góc trong cùng của buồng ngủ, chỉ có hoàng hậu là đón hướng kim thượng đi tới.

"Quan Gia, Mậu Tắc đang chữa bệnh cho ngài..." Hoàng hậu thử giải thích với ngài.

Kim thượng không nghe lọt một chữ, cánh tay quét ngang, lưỡi dao lại chĩa sang hoàng hậu.

"Nàng gấp rút muốn giết ta đến vậy sao?" Ngài chậm rãi nói, nhìn hoàng hậu, sắc mặt giận dữ đối với Trương tiên sinh ban nãy tan bớt, trong mắt ầng ậng ánh lệ, "Ta cưới nàng làm vợ, cho Thập Tam cưới Thao Thao, nàng còn chưa yên tâm... Được, vậy ta dẫn người của nàng vào triều, nàng muốn biết cái gì, ta cho nàng biết... Nàng cho ta dây thừng, ta cam lòng chịu trói, như thế vẫn chưa đủ ư? Vì sao nàng vẫn chưa yên tâm, còn lén lút làm ra bao nhiêu chuyện thế này, thà tin tưởng tên hoạn quan kia cũng không chịu tin ta?"

"Thiếp không tin chàng ư?" Hoàng hậu lúc này cũng lộ vẻ xúc động, rưng rưng nước mắt, "Nếu chàng tin thiếp thì hai mươi hai năm qua liệu chàng có để thiếp sống như đi trên băng mỏng, bất cứ lúc nào cũng phải sẵn sàng ứng đối với những trận nhục nhã bất ngờ hết lần này đến lần khác vậy không? Phàm chàng tín nhiệm thiếp nhiều hơn một chút thôi thì phu thê đôi ta sao nên nông nỗi này!"

Thân mình kim thượng run run, ngẩn ngơ nhìn hoàng hậu chằm chằm, chốc sau, chợt nở nụ cười bi thương, xua tay than: "Hai mươi năm, thật chẳng ra sao..."

Lời chưa dứt đã giơ tay lên, xoay cổ tay nhắm con dao trong tay vào chính mình...

Ta ý thức được ngài định làm gì, lập tức dấn bước lao qua, muốn cản ngài. Tiếc rằng vị trí hiện thời cách ngài hơi xa, mắt thấy tay ngài vung xuống, đang hận sức mình không ngăn lại được thì chợt có người từ bên trái kim thượng nhào tới, bắt được tay ngài trước khi lưỡi dao chạm đến thân thể.

Đó là Thu Hòa. Hình ảnh ấy như có một chớp mắt đứng im, để ta phát hiện ra ấn tượng bên trên không quá chuẩn xác. Nói cho đúng, là Thu Hòa xông lên, một tay nắm lấy tay kim thượng, một tay tóm chặt lấy lưỡi dao mỏng tang sắc lẹm.

Máu đào ròng ròng chảy xuống từ trong tay Thu Hòa, nhỏ xuống không gian yên ắng lúc này, từng giọt từng giọt rơi xuống đất, phát ra những âm thanh nhẹ bẫng.

Kim thượng cũng như tất cả mọi người, đều kinh ngạc nhìn cô, không có bất kỳ phản ứng nào trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Mãi đến khi ta giành con dao ra khỏi tay ngài, ngài mới lấy lại được tinh thần, đẩy người hầu muốn tiến lên đỡ mình ra, sải bước chạy ra ngoài điện.

Mà Thu Hòa thì như bấy giờ mới cảm nhận được cơn đau nhức, khom người áp tay vào lòng, tiếng rên rỉ và nghẹn ngào vỡ vụn không cầm được bật khỏi khớp hàm nghiến chặt của cô, thân mình cô đổ nghiêng, ngã xuống đất.

Miêu thục nghi và Du sung nghi bước lên đỡ cô ngồi dậy, hoàng hậu lệnh Đặng Bảo Cát chạy tới từ đằng sau: "Mau tuyên thái y bên ngoài vào đây, băng bó cho Đổng nương tử!"

Tuy đang trong trạng thái hỗn loạn, nhưng ta vẫn chú ý được mới rồi bà gọi Thu Hòa là "Đổng nương tử", hơn nữa khi nói đến ba chữ này còn cố ý nhấn mạnh.

Kim thượng chạy ra sau Phúc Ninh Điện, đám người Thạch Toàn Bân, Võ Kế Long đã đuổi theo ngài, thậm chí ngay cả Chu, Trương hai vị quận quân cũng chạy vội ra theo, mà hiện giờ, hoàng hậu lại liếc Trương tiên sinh, phân phó: "Bình Phủ, anh mau đi xem quan gia thế nào..."

Trương tiên sinh ứng lời, lập tức đuổi theo. Ta cũng theo sát sau thầy, men theo phương hướng kim thượng chạy, đuổi suốt một đường. Tim đập nhanh khác thường, lờ mờ dậy lên một dự cảm: nơi không biết phía trước còn có một cơn phong ba dữ dội hơn đang kéo đến.

Dự cảm ấy không sai. Đích đến của kim thượng là tiểu điện Nội Đông Môn. Thì giờ vừa đúng canh năm, tể chấp đã vào điện, lúc chúng ta bắt kịp ngài, ngài đã nắm lấy tay tể tướng Văn Ngạn Bác ra ngoài tiếp giá, cao giọng hô: "Hoàng hậu và Trương Mậu Tắc mưu nghịch lớn!"


7. Bùn yến

Tể chấp xung quanh nghe mà biến sắc, chỉ duy Văn Ngạn Bác mặt mày vẫn bình tĩnh, chỉ hỏi kim thượng: "Sao bệ hạ lại nói như vậy?"

Kim thượng xoa ngực, thở phì phò dồn dập, nói đứt quãng: "Họ cùng đại thần...mưu đồ bí mật, muốn cho Thập Tam...làm hoàng đế..."

Lúc nói tới "cùng đại thần mưu đồ bí mật", ánh mắt ngài hốt hoảng lướt qua Phú Bật đứng bên Văn Ngạn Bác chừng như lơ đãng. Phú Bật rùng mình, môi giật giật như muốn nói gì, nhưng chung quy câu ấy lại chẳng nên lời, sau cùng ông cụp mắt cúi người với kim thượng, giữ im lặng.

"Họ muốn...giết ta... Dùng kim...dùng kim đâm vào đầu ta..." Giọng hoàng thượng càng lúc càng yếu, thân mình cũng không trụ vững được nữa, trượt xuống dưới, nội thị hai bên bước lên đỡ, sau thì kim thượng nhắm mắt, rơi vào trạng thái nửa hôn mê, miệng lẩm bẩm nói mớ, toàn những từ ngữ rời rạc lộn xộn không thành câu.

Văn Ngạn Bác sai người đỡ kim thượng vào tiểu điện Nội Đông Môn nghỉ ngơi trước rồi truyền thái y, tiếp đó đưa mắt nhìn những người trước mặt, hỏi duyên cớ trong đây. Ta thấy Trương tiên sinh im lặng không nói, bèn đáp lời Văn Ngạn Bác trước khi đám Thạch Toàn Bân kịp mở lời: "Ban nãy quan gia ngất xỉu, uống thuốc đốt ngải bình thường không hiệu nghiệm, Trương tiên sinh kiến nghị dùng kim châm vào huyệt vị sau đầu, chúng thái y không dám hành thuật này, để tránh làm lỡ thời cơ chữa chạy, Trương tiên sinh đành tự tiến cử châm cứu, cũng không phải mưu toan làm tổn hại long thể như lời quan gia nói."

An Định quận quân đứng một bên cũng chứng thực: "Đích xác là vậy. Trương tiên sinh châm cứu được một lát thì quan gia tỉnh lại, nghiêng đầu thấy Trương tiên sinh đang cầm kim muốn cắm lên đầu ngài thì cả kinh, rút kim găm trên đầu ra, vội vàng đứng dậy, cầm dao chĩa lại... Có lẽ tưởng lầm là Trương tiên sinh..."

Cô dừng lại ở đây, không nói hết, nhưng ý nghĩa trong lời đã rất rõ ràng. Văn Ngạn Bác trầm ngâm, lại hỏi Thanh Hà quận quân: "Có đúng vậy không?"

Thanh Hà quận quân gật đầu: "Phải ạ. Trước khi châm cứu, Trương tiên sinh không cho người đóng cửa cung, nếu có dị tâm thì đã chẳng thản nhiên như thế."

Thanh Hà quận quân xưa nay luôn hiền hòa lương thiện, thái độ phụng dưỡng đế hậu rất kính cẩn, khác hẳn chị gái mình. Giờ nghe cô nói vậy, ta cũng hơi yên lòng.

Thanh Hà quận quân lại nhún mình với Văn Ngạn Bác, nói: "Quan gia ốm bệnh đã lâu, mong tướng công miễn xá tiêu tai cho thiên tử."

Văn Ngạn Bác cũng xá cô: "Đây là chức trách của tể chấp, Ngạn Bác sao dám không tận sức!"

Kế đó, ông quay sang Trương Mậu Tắc, dặn: "Về sau phụng dưỡng chúa thượng chớ để ngài thấy binh khí kim loại, kim dùng châm cứu cũng cất tạm đi đã."

Trương tiên sinh cười sầu khổ, không đáp.

Lúc này, có nội thần từ trong điện đi ra, nói với Văn Ngạn Bác: "Quan gia đang gọi tướng công ạ."

Văn Ngạn Bác và quan viên nhị phủ còn lại bèn cùng vào gặp vua, mà Thạch Toàn Bân đỡ kim thượng vào điện thì lại đi ra, bước thẳng tới cạnh Trương tiên sinh, nói: "Mới rồi quan gia nói anh mưu nghịch, tuy việc này chưa chắc đã là thật nhưng để tránh hiềm nghi, Bình Phủ có thể cho tôi xem thử chỗ ở của anh không?"

Ý là muốn lục soát nơi ở của Trương tiên sinh xem có căn cứ mưu nghịch xác thực không.

Võ Kế Long thấy Trương tiên sinh vẫn trầm mặc, bèn cũng góp lời: "Chúng ta cộng sự nhiều năm, tự biết anh không làm thế, nhưng quan gia đã nói vậy rồi, trong cung khó giữ bí mật, nhiều người biết sẽ khó tránh khỏi có kẻ phỏng đoán xằng bậy. Tốt nhất là để chúng tôi đi xem xem, tương lai có ai nói bậy, chúng tôi cũng dễ bề biện bạch thay anh."

Trương tiên sinh đứng trơ trong gió rét đìu hiu, ánh mắt phân tán đậu lên một nơi không xác định nào đó phía trước, một lúc lâu sau mới mở miệng: "Mậu Tắc đành nhờ hai vị đô tri xử trí."

Đối với nơi ở gọn gàng thanh nhã của Trương tiên sinh mà nói, bận lục soát này chẳng khác nào một tai vạ chưa từng có. Hai vị đô tri dẫn tiểu hoàng môn lật tung mỗi ngóc ngách trong phòng, làm mặt sàn hỗn độn thành đống, vô cùng mất trật tự, không một món đồ nào là còn nguyên vị trí.

Có điều, họ chẳng tìm được bằng chứng gì đủ để chứng minh Trương tiên sinh mưu toan phản nghịch. Ban đầu ta lo họ sẽ mò được một vài bản sao tấu chương thần tử, hoặc quyển chiếu thư phế hậu, nhưng cũng không có.

Nghĩ lại, từ khi làm lĩnh ngự dược viện, Trương tiên sinh theo quan gia vào triều, chính sự cao thấp đều nghe rõ cả, vốn chẳng cần tiếp tục tích trữ tấu chương, mà quyển chiếu thư thì chắc chắn Trương tiên sinh đã thuộc làu làu, sau chuyện dẹp giặc thầy càng thêm cẩn thận, hẳn cũng sẽ không giữ lại trong phòng.

Trong lúc lục soát phòng ngủ, Thạch Toàn Bân phát hiện ra ba cái rương lớn có khóa, yêu cầu Trương tiên sinh mở ra, Trương tiên sinh lại không bằng lòng, nói: "Mậu Tắc lấy tính mạng ra cam đoan, trong đây chỉ là chút vật phẩm riêng tư, tuyệt đối không phải thứ trái với lệnh cấm."

Thạch Toàn Bân căn bản không tin, thấy Trương tiên sinh khăng khăng không chịu, tức thì sai người cưỡng chế cạy khóa, xông lên kiểm tra, rất nhanh sau đó đã phải thất vọng – cất trong rương chỉ là trăm ngàn cuộn giấy ngập chữ và một vài tài liệu văn tự, không có vẻ gì là được viết cụ thể như thư từ, không có ý nghĩa minh xác, chỉ toàn những tập viết phi bạch, bút lực không đều, trang giấy cũ mới không đồng nhất, hẳn là giấy bỏ đi sau khi luyện chữ.

Thạch Toàn Bân còn chưa hết hi vọng, mở từng cuộn ra xem, song vẫn chẳng phát hiện ra bất kỳ câu chữ nào mưu nghịch. Y bèn nhếch khóe miệng với Trương tiên sinh: "Thì ra Bình Phủ cũng mê bút nghiên."

Không thu hoạch được gì, người tra xét chuyển sang lục lọi tất cả lưỡi dao vật nhọn trong phòng Trương tiên sinh, bao gồm cả dao cắt giấy và đồ dùng châm cứu. Sau cùng, Thạch Toàn Bân buông xuống một tiếng "Đắc tội" rồi nghênh ngang bỏ đi.

Đợi họ khuất bóng rồi, Trương tiên sinh mới cúi người xuống, bắt đầu một lần nữa thu dọn lại từng cuộn phi bạch viết hỏng này vào rương. Ta và tiểu hoàng môn bên người thầy giúp đỡ, bốn năm người cùng bắt tay vào làm, mất một khoảng thời gian dài mới hoàn toàn thu dọn xong xuôi.

Bọn ta muốn tiếp tục sắp xếp lại đồ đạc bị lật tung cho Trương tiên sinh, thầy lại xua tay, nói: "Ta mệt rồi, muốn nghỉ ngơi. Các cậu về trước đi."

Sắc mặt thầy tối tăm, hai mắt đờ đẫn, quả thực có vẻ vô cùng mệt mỏi. Bọn ta bèn đồng ý, lui khỏi phòng để thầy nghỉ ngơi.

Ta định trở về, đi được mấy bước lại không nhịn được quay đầu, thấy Trương tiên sinh đang đóng cửa từ bên trong, tay vịn lấy hai cánh cửa phòng, trước khi khép lại, thầy nghiêng đầu nhìn về phía trung cung, trong mắt lập lòe ánh lệ, sắc thái thê lương.

Ta ngớ ra, mơ hồ cảm thấy có gì đó không ổn, lại không nói được cụ thể là cảm giác gì. Cuối cùng vẫn xoay người, chậm rãi đi ra ngoài.

Lúc đi tới Nội Đông Môn, bên trên chợt có thứ gì rơi xuống, rớt trúng khăn chít đầu của ta rồi lăn xuống đất. Ta cụp mắt nhìn mặt đất, trông thấy một cục nhìn như bùn, lại ngẩng lên xem, phát hiện ra đó là bùn từ tổ yến năm cũ trên xà hiên cửa rơi xuống.

Chính trong sát na ấy, ta hốt nhiên cả kinh, tức khắc quay đầu vội vã chạy về phía nơi ở của Trương tiên sinh.

Cửa phòng thầy đóng kín, ta lớn giọng hô gọi mãi không thấy thầy đáp lời, bèn không dám trì hoãn thêm nữa, lùi ra sau hai bước, tung người đạp một cước, phá cửa xông vào.

Chạy vào buồng trong, quả nhiên bắt gặp kết quả ta phỏng đoán: trên xà nhà rủ xuống một dải lụa trắng, cổ Trương tiên sinh tròng vào thòng lọng, treo mình dưới xà nhà.

Ta cấp tốc tiến lên, vừa ôm lấy hai chân thầy nâng lên, vừa cao giọng gọi người tới. Nội thị chung quanh chốc lát kéo đến, trông thấy cảnh tượng này đều lấy làm kinh hãi, ba chân bốn cẳng cởi dây thả Trương tiên sinh xuống, đỡ lên giường, hết bấm huyệt nhân trung lại nhấn ngực, một lúc sau, thấy Trương tiên sinh ho ra tiếng, mọi người mới thở phào nhẹ nhõm. Đợi lấy lại tinh thần rồi, có người ra ngoài tìm thái y đồng thời thông tri cho tể chất trong tiểu điện Nội Đông Môn.

Thái y chạy đến rất nhanh, sau một phen cứu chữa thì tuyên bố Trương tiên sinh đã không còn gì đáng ngại, kê đơn thuốc, lại dặn dò chi tiết mấy ngày nay phải chăm sóc thầy ra sao rồi thu dọn dụng cụ chữa bệnh, quay về thông báo tình hình cụ thể cho tể chấp.

Sau khi Trương tiên sinh tỉnh dậy, đám tiểu hoàng môn thường ngày hầu hạ thầy đều giàn giụa nước mắt, hỏi thầy cớ sao ra hạ sách này. Thầy chỉ chán nản nhắm mắt, nghiêng đầu vào trong, không nói không rằng.

Lát sau, có hoạn giả hầu trong tiểu điện Nội Đông Môn tới cho mời: "Văn tướng công mời Trương tiên sinh đi Trung thư tỉnh một chuyến."

Ta và Đặng Bảo Cát hay tin chạy đến trước đó đỡ Trương tiên sinh dậy, kèm dìu hai bên, đưa thầy tới Trung thư tỉnh. Lúc này các quan viên lưỡng phủ khác đại khái hãy còn chầu trong tiểu điện Nội Đông Môn, trong Trung thư tỉnh chỉ có một mình Văn Ngạn Bác, nhác thấy Trương tiên sinh, ông lập tức mở miệng: "Anh có làm chuyện mưu nghịch mà chúa thượng nói không?"

Trương tiên sinh lắc đầu.

Văn Ngạn Bác lại chất vấn: "Đã không làm thì vì sao anh lại gây nên chuyện hồ đồ nhường ấy ngay tại thời khắc nhạy cảm thế này, để người ta cho là anh sợ tội tự sát?"

Trương tiên sinh cụp mắt không đáp, Đặng Bảo Cát thấy thế bèn giải thích thay: "Bởi quan gia nói đến hoàng hậu, có lẽ là Bình Phủ tự cảm thấy mình làm liên lụy đến trung cung, nên..."

Văn Ngạn Bác xua tay, nói với Trương tiên sinh: "Thiên tử bị bệnh, có nói gì cũng chỉ là mê sảng khi đương bệnh, anh hà tất cho là thật?"

Thấy Trương tiên sinh vẫn lặng thinh, sắc mặt Văn Ngạn Bác nghiêm lại, vung tay áo trỏ vào thầy, lạnh lùng nói: "Anh chết rồi, trung cung biết nương thân chốn nào?"

Trương tiên sinh tức thì ngẩng đầu như bị lay chuyển. Mặt đối mặt trong im lặng với Văn Ngạn Bác một lúc, thầy vái vị tể tướng trước mặt một vái thật sâu, cổ họng mới bị tổn thương phát ra giọng nói khàn khàn tàn tạ: "Mậu Tắc tạ tướng công giáo huấn."

Văn Ngạn Bác gật đầu, gọi kẻ hầu bên ngoài vào, lệnh: "Đi mời các vị đô tri, phó đô tri trong cung lại đây."

Rất nhanh, chúng hoạn quan cao cấp nối gót đi vào. Văn Ngạn Bác liếc Trương Mậu Tắc, nói với mọi người trước mặt: "Chuyện hôm nay đã điều tra rõ, cái gọi là mưu nghịch chỉ là lời mê sảng khi đương bệnh của thiên tử, không phải thật sự, Mậu Tắc vô tội. Xin các đô tri nhắc nhở thuộc hạ chớ bàn tán quàng xiên, về sau mà có lời đồn đại truyền ra ắt chém không tha!"

Thần sắc ông nghiêm túc, ánh mắt uy nghiêm, chúng hoạn quan không dám trái lời, đều cúi đầu nghe lệnh.

Văn Ngạn Bác lại nhìn sang Trương tiên sinh, vẻ mặt đã dịu đi nhiều, ôn hòa căn dặn thầy: "Sau này anh chính là người hầu hạ bên cạnh chúa thượng, cần phải tận tâm tận lực, chớ rời đi quá thường xuyên."

Trương tiên sinh gật đầu ưng thuận. Văn Ngạn Bác lại cho gọi Sử Chí Thông tới trước mặt, nói: "Xin đô tri bẩm báo hoàng hậu, tể chấp lưỡng phủ muốn làm lễ tế ở Đại Khánh Điện, ngày đêm dâng hương, cầu phúc cho vua. Mong hoàng hậu cho phép, dựng trướng sạp ở nhà hông mé tây điện chuẩn bị cho lưỡng phủ ngủ lại."

Làm lễ tế cầu phúc hẳn chỉ là cái cớ, có lẽ là Văn tướng công thấy cung cấm không yên nên muốn nhân cớ đó ngủ lại trong cung, phòng chuyện bất thường.

Đối mặt với yêu cầu này, Sử Chí Thông chần chừ đáp: "Theo lệ quốc triều, lưỡng phủ không ngủ lại trong điện..."

Văn Ngạn Bác liền trừng mắt, cao giọng phản bác: "Tình thế bây giờ không bình thường, há lại bàn đến lệ thói!"

Sử Chí Thông cả kinh, vội vâng dạ đồng ý, lĩnh mệnh rời đi.

Bấy giờ Văn Ngạn Bác mới phất tay cho mọi người lui.


8. Tố tâm

Giáo chỉ của hoàng hậu nhanh chóng truyền đạt xuống, đồng ý cho lưỡng phủ làm lễ tế cầu phúc trong Đại Khánh Điện. Được lệnh, Văn Ngạn Bác lập tức điều hành dựng đàn tế, chuẩn bị trướng sạp, qua đêm cùng vài vị tể chấp ở nhà hông mé tây đại điện. Sau khi nói chuyện riêng với Văn Ngạn Bác, Phú Bật cáo ốm xin nghỉ xuất cung, tỏ rõ không tham dự vào chính sự nơi đây.

Hành động này của ông tất nhiên là để tránh hiềm nghi. Kim thượng nói hoàng hậu cùng đại thần mưu đồ bí mật, người xem chỉ e đều đoán ra vị "đại thần" ấy là ai. Hoàng hậu nghiêng về phe đại thần tân chính, đó là điều người trong cung ngoài triều ít nhiều đều cảm giác được, tuy khi nói câu này kim thượng không nhìn đến Phú Bật, song mọi người liên hệ tiền hậu nhân quả cũng có thể nghĩ ra là ông.

Trước sau ta vẫn không yên tâm về Trương tiên sinh, sợ thầy sau đó sẽ còn tự sát, thế nên ngày kế trời vừa tảng sáng, ta đã sang chỗ thầy thăm thầy. Lúc ta đến nơi, thầy đã không còn trong phòng, chỉ có một cậu tiểu hoàng môn đang quét dọn phòng ốc cho thầy.

"Chào buổi sáng, Lương tiên sinh!" Đại khái là nhờ hành vi của ta hôm qua nên cậu ta rất hữu hảo với ta, thấy ta là mỉm cười hành lễ ngay, không đợi ta hỏi đã nói cho ta biết: "Trời còn chưa sáng, Trương tiên sinh đã đi Phúc Ninh Điện hầu hạ quan gia rồi ạ, hiện giờ không có ở đây."

Ta vẫn hơi lo lắng, hỏi: "Tối qua không xảy ra chuyện gì nữa chứ?"

"Trương tiên sinh rất khỏe, tối qua ăn cháo uống thuốc đúng theo lời thầy thuốc căn dặn, cũng không có trạng thái nào bất thường. Tôi lo lắng trông chừng thầy suốt đêm, cũng không thấy thầy có gì không ổn." Cậu ta nói rồi nhìn ta, thoáng dừng lại như đang suy nghĩ, cuối cùng vẫn quyết định kể với ta: "Nhưng nếu nói có chuyện gì bất thường thì vẫn có... Giữa đêm, hoàng hậu từng sang đây thăm thầy, dẫn theo Đặng Bảo Cát. Khi đó Trương tiên sinh đã đóng cửa đi ngủ, Đặng đô tri hầu hoàng hậu đứng trong sân, cất giọng thông báo, bảo thầy ra tiếp giá. Nhưng Trương tiên sinh không mở cửa, chỉ ăn mặc chỉnh tề rồi quỳ xuống sau cửa, nói mình đã không còn đáng ngại, không dám làm phiền hoàng hậu hạ cố, mời hoàng hậu về. Hoàng hậu lại gần hơn, nói: 'Anh mở cửa cho ta xem xem, xem xong ta sẽ về.' Trương tiên sinh vẫn không đồng ý, chỉ khấu đầu hạ bái, cao giọng nói: 'Lời dạy bảo của hoàng hậu, thần đã khắc sâu trong tâm khảm, về sau ắt sẽ tận sức hầu hạ quan gia, tuyệt không lười biếng.' Hoàng hậu nghe vậy, không nói gì thêm. Sau đó, Trương tiên sinh lại nói câu: 'Thần cung tiễn hoàng hậu.' rồi rạp mình bái lạy, hồi lâu không ngẩng lên, mãi đến khi tôi nói với thầy trên chấn song đã không còn bóng của hoàng hậu, thầy mới từ từ đứng dậy."

Ta nghe rồi, không biết nên nói gì cho phải, nhất thời chỉ bặt thinh, ánh mắt phiêu du không mục đích vào phòng. Cuối cùng, một nhành mai vàng cắm trên bàn đã thu hút sự chú ý của ta.

Hoa mai vàng thuần điểm trắng, trong trẻo óng ánh, sắc tựa sáp ong, trạng thái bán trong suốt, mà tâm hoa lại trắng ngần. Tuy không lộng lẫy bằng mai đỏ song nồng nàn thơm nức, hương mai nổi bật. Lúc này, trong phòng đã được tiểu hoàng môn lau dọn sạch sẽ sáng sủa, hương hoa hòa cùng hơi nước chưa khô, càng thêm thanh nhã tươi mát.

Thấy ta để ý tới mai vàng, tiểu hoàng môn bèn giải thích: "Hoa này là hoàng hậu sai người đưa tới sáng nay... Loài mai vàng này là loài hoa Trương tiên sinh thích nhất."

Ta gật đầu, hỏi lại cậu ta: "Loài mai vàng này tên là gì?"

Cậu ta trả lời: "Tố tâm."

Nguyên nhân Trương tiên sinh đóng cửa không gặp hoàng hậu có lẽ rất phức tạp, mà ta chỉ có thể đoán được tầng nghĩa dễ hiểu nhất: tránh hiềm nghi, không để kẻ rình rập ngôn hành của họ tìm ra bằng chứng họ "mưu đồ bí mật".

Thế nên ta rất bội phục hoàng hậu, đi thăm Trương tiên sinh trong tình huống hiện nay cần phải có dũng khí. Đồng thời, ta cũng cảm khái quyết tâm đóng cửa không ra của Trương tiên sinh, cự tuyệt người tố tâm gắn bó với mình đến thăm hỏi cũng cần một loại dũng khí khác.

Hiển nhiên vẫn luôn có người theo dõi họ sát sao, bằng không kim thượng đã chẳng biết chuyện Trương tiên sinh đi tìm Thập Tam Đoàn Luyện và Phú Bật. Thế nên, tuy Trương tiên sinh và hoàng hậu không gặp nhau nhưng ta vẫn e sợ việc này bị kẻ rình trộm họ chứng kiến, vin vào đây chêm lời.

Quả nhiên có người làm vậy thật, nhưng kết cục rất bi thảm, biến khéo thành vụng, đâm ra bỏ mạng.

Sáng hôm ấy, tin tức Văn tướng công khai sát giới, hạ lệnh xử trảm một tên mật báo truyền khắp hoàng thành.

Kẻ nọ cầu kiến tể chấp qua đêm ở nhà hông mé tây Đại Khánh Điện giữa đêm, tố cáo việc "mưu nghịch". Văn Ngạn Bác vừa nghe đã lập tức sai người mài mực vào bồn, gọi kẻ nọ qua, tự mình cầm bút bôi mực dày đặc lên mặt hắn, khiến người ta nhìn không ra dung mạo vốn có của hắn, đợi đến lúc mở cửa cung thì kêu thị vệ tới, ra lệnh áp giải kẻ nọ ra ngoài Đông Hoa Môn xử trảm.

Do đó, không ai biết kẻ mật báo này là ai. Hai ngày sau, có người lặng lẽ nói, tiểu hoàng môn dưới trướng Thạch đô tri hình như mất tích. Ta không quen biết người nghe đồn là mất tích ấy nên chẳng rõ là thật hay giả, nhưng bất kể thế nào, sau đó trên dưới cung cấm đều lấy làm nể sợ, không còn lưu truyền lời bàn liên quan đến "mưu nghịch" nữa.

Kể từ khi công chúa ốm bệnh, mỗi ngày ta đều theo Miêu thục nghi tới trung cung, bẩm báo bệnh tình của công chúa cho hoàng hậu. Nhưng một ngày nọ, ta và Miêu thục nghi đang định ra cửa thì thấy trung cung sai người đến đưa tin: "Hoàng hậu quyết định đóng gác ăn chay chép kinh, cầu phúc cho quan gia, thẳng đến khi quan gia khỏi hẳn lên triều. Trong thời gian này miễn lễ vấn an cho mọi người trong cung, bắt đầu từ hôm nay trở đi, Miêu nương tử tạm thời không cần phải đến Nhu Nghi Điện."

Miêu thục nghi ngạc nhiên: "Ăn chay chép kinh cầu phúc cho quan gia đâu cần phải không gặp người khác? Hoàng hậu vì lẽ gì lại quyết định như thế?"

Người tới không dám trả lời, vội vã cáo từ. Nhưng quan gia ốm bệnh, chư nương tử trong cung dưới mối sầu lo lại càng thêm dỏng tai, cực kỳ nhạy bén với bất kỳ động tĩnh gió thổi cỏ lay nào. Sau, Du sung nghi sang thăm đã kể cho Miêu thục nghi tin tức mình nghe được: "Có hai tay quan viên Ty thiên (*) nói với mọi người là đêm xem sao trời, nhìn ra thiên tử ốm bệnh, quốc gia sắp có dị biến, nếu hoàng hậu học Chương Hiến buông rèm chấp chính thì sẽ đảm bảo được quốc thái dân an. Họ còn viết đơn tường thuật giao cho Sử đô tri, nhờ y chuyển cho Văn tướng công."

(*) Cơ quan quản lý sự vụ liên quan đến hiện tượng thiên văn.

Miêu thục nghi nghe xong có phần kinh hãi: "Đám đại thần trong triều phiền chán nhất là có ai nhắc đến chuyện Chương Hiến thái hậu buông rèm chấp chính năm đó kia mà. Hoàng hậu mà nắm quyền sao họ chịu bằng lòng?"

Du sung nghi đáp: "Hiện giờ còn chưa rõ thái độ Văn tướng công thế nào. Nghe nói ông ấy chỉ cười với Sử đô tri rồi nhận đơn, không nói gì thêm nữa."

Miêu thục nghi hỏi nhỏ: "Lai lịch hai tay quan viên Ty thiên đó ra sao? Trước đây có từng tiếp xúc với hoàng hậu không?"

Du sung nghi xua tay: "Ai biết được chứ? Nhưng hai ngày trước, hai người này xin Võ đô tri dẫn họ vào Đại Khánh Điện, sau đó giơ đơn tường thuật ở chỗ lưỡng phủ tụ tập, nói với tể chấp đáng ra quốc gia không nên đào sông ngòi ở phương bắc, thay đổi dòng chảy của Hoàng Hà, khiến thiên tử thánh thể bất an. Mũi nhọn rõ ràng là chĩa vào Phú tướng công, bởi sông là do Phú tướng công quyết định mở... Từ đó có thể thấy, họ hẳn không phải thân với trung cung. Hôm nay nghe chuyện họ kiến nghị hoàng hậu nắm quyền, em còn tưởng họ đột nhiên đổi tính, muốn lấy lòng hoàng hậu cơ..."

Miêu thục nghi hỏi lại: "Thế tức là hoàng hậu tuyên bố đóng gác không ra, không gặp người trong cung là vì chuyện này?"

Du sung nghi đáp: "Đúng vậy. Nghe nói sáng nay Đặng đô tri khấp khởi báo việc này cho chị ấy, không ngờ chị ấy lại biến sắc, lập tức sai hạ nhân truyền lệnh, nói đóng gác ăn chay chép kinh, không ra ngoài cũng không gặp người không phận sự, rõ ràng là không muốn dính dáng đến chính sự."

Miêu thục nghi như hiểu được phần nào: "Không phải là hai tên này muốn đổ thêm dầu vào lửa ngay thời khắc quan trọng này, khiến đại thần phản cảm với hoàng hậu đấy chứ?"

Du sung nghi mỉm cười, giữ kín như bưng.

Miêu thục nghi hãy còn một thắc mắc: "Nhưng quan viên Ty thiên hẳn không có cơ hội nào gặp mặt hoàng hậu mới phải chứ? Sao lại chĩa mũi nhọn vào hoàng hậu như thế? Chẳng lẽ là có người giật dây?"

Đây cũng là điều ta muốn hỏi, nhưng Du sung nghi không trả lời được câu hỏi của bà, sau cùng, người đưa ra giải thích hợp lý là Trương tiên sinh.

Lúc ta thuật lại chuyện quan viên Ty thiên mời hoàng hậu lên nắm quyền cho thầy khi ấy vừa từ Phúc Ninh Điện trở về, thầy vừa kinh ngạc lại hơi bất an, vội hỏi ta: "Hoàng hậu phản ứng thế nào?"

Ta báo đúng sự thật với thầy, thầy mới thở phào, nói: "Người mà để lộ vui mừng dù chỉ một ít thôi cũng là trúng gian kế của tiểu nhân rồi."

Ngay sau đó, thầy kể cho ta hay, Giả Xương Triều hiện giữ chức Bắc Kinh lưu thủ (*) căm ghét Phú Bật xưa nay, lại có qua lại với Võ Kế Long, trước đây quan viên Ty thiên phản đối chuyện đào sông, hẳn là do Giả Xương Triều mượn tay Võ Kế Long sắp đặt. Thế nên, họ xin hoàng hậu nắm quyền cũng chẳng phải xuất phát từ hảo tâm, nếu hoàng hậu có ý buông rèm, thứ nhất sẽ làm tể chấp cảnh giác, thứ hai, nếu kim thượng khỏi hẳn, biết được việc này tất sẽ càng thêm phòng bị kiêng dè hoàng hậu, thậm chí hậu quả còn có thể nghiêm trọng hơn.

(*) Chức quan đóng giữ kinh đô khi hoàng đế rời kinh, bồi đô cũng có đại thần lưu thủ, như Bắc Kinh là bồi đô ở đây.


9. Hồi phục

Ngày kế, Văn Ngạn Bác cho gọi hai tay quan viên Ty thiên vào nhà hông mé tây Đại Khánh Điện hỏi đáp, không biết ông đã nói gì với hai người họ mà lúc đi ra, cung nhân ngoài điện thấy vẻ mặt họ kinh sợ, cơ hồ là vắt giò lên cổ mà chạy.

Sau đó, Văn Ngạn Bác lại triệu tập quan viên lưỡng phủ ở đại điện, công bố đơn tường thuật của hai người, chư quan viên ngang hàng vừa đọc đã nổi giận, cao giọng chất vấn, vang dội trong ngoài: "Ngữ chuột nhắt dám vọng ngôn đại sự quốc gia, tội đáng chém sao còn chưa chém?"

Văn Ngạn Bác đáp: "Chém chúng sẽ khiến sự việc lan rộng, trong ngoài lời ra tiếng vào sẽ gây bất an cho trung cung."

Lúc này chúng tể chấp đã biết thái độ của trung cung, chắc hẳn cũng có hảo cảm với bà, bèn cùng gật đầu nói phải.

Cuộc thương thảo ấy không tránh né người hầu trong điện nên rất nhanh đã truyền tới hậu cung, đương nhiên, cũng rất có thể là tể chấp cố tình làm vậy. Sau đó, họ lại cho gọi quan viên Ty thiên vào điện, ngay trước mặt chúng đô tri và người hầu trong ngoài, Văn Ngạn Bác tuyên bố công khai quyết định xử phạt hai người: "Trước đây triều đình đào sông để nước sông từ sông Thương Đồ Thiền Châu xuyên qua kênh Lục Tháp đổ vào dòng Hoành Lũng cũ. Các anh nói đó là xuyên sông phương chính bắc, khiến thánh thể bất an, vậy giờ làm phiền hai anh trắc lượng xem vị trí của Lục Tháp so với kinh sư có đúng là chính bắc không."

Đây là mượn danh trắc lượng vị trí cách chức hai người điều ra ngoài. Quan viên Ty thiên nghe mà biến sắc, liên tiếp đánh mắt sang Võ Kế Long, mong y có thể cầu tình thay mình. Võ Kế Long lấy lí do sự vụ thiên văn trong cung còn cần hai vị quan Ty thiên này chủ trì, khẩn xin Văn Ngạn Bác giữ họ lại.

Văn Ngạn Bác hỏi vặn: "Cái chúng muốn dây máu ăn phần chỉ e chẳng riêng gì sự vụ thiên văn thôi đâu, phải không? Chức quan hai tên này thấp nhỏ, vốn không dám can thiệp vào quốc sự mà giờ lại ăn nói vượt quyền như vậy, tất là có người xúi giục."

Võ Kế Long im bặt không dám đáp lại. Thế là, hai tay quan viên Ty thiên bị trục xuất khỏi kinh sư, điều đi trắc lượng kênh Lục Tháp.

Chuyện Văn Ngạn Bác xử lý việc "mưu nghịch" và quan viên Ty thiên làm người trong cung tấm tắc bảo lạ. Vốn khi trước có vụ gấm đèn lồng, mọi người đều cho rằng ông là người phe Ôn Thành, lại chẳng ngờ ông sẽ bảo vệ trung cung đến thế.

"Cậu nói xem liệu có phải Văn tướng công biết việc hoàng hậu cấm cung nhân hát bài 'Phấn hồng trong cung nhớ nịnh thần' nên mới có qua có lại vậy không?" Trương Thừa Chiếu hỏi ta.

Ta không nghĩ đó là nguyên nhân chính. Thực ra tài năng và tác phong hành sự của Văn Ngạn Bác kỳ thực khá giống hoàng hậu. Theo ta lý giải, trước đây ông vãng lai với Trương quý phi là do Trương thị chủ động lấy lòng, huống hồ còn có nhân tố thế giao bên trong, ông cũng không tiện khước từ, nhưng về bản thân hai vị hậu phi này thì hẳn hoàng hậu rộng lượng cơ trí dễ chiếm được sự tán thưởng và tôn trọng của ông hơn. Hai con người trí tuệ tính cách gần nhau thường sẽ cùng chung chí hướng, nhất là khi có bất đồng giới tính xóa nhòa đi quan hệ cạnh tranh.

Mặt khác, ngay từ đầu ông đã chẳng coi chuyện hoàng hậu liên hệ với thái tử tương lai là mưu nghịch, khả năng là bởi chính ông cũng cảm thấy lúc này suy xét về vấn đề thái tử là thỏa đáng, hoàng hậu cũng không làm sai. Sau, trong cung truyền nhau lời đồn rằng thực ra Văn tướng công cũng đang kín đáo chuẩn bị, vốn đã bàn bạc xong xuôi với Phú tướng công, kim thượng mà có gì bất trắc sẽ đưa Thập Tam Đoàn Luyện lên ngôi, thậm chí, ông còn bảo hàn lâm học sĩ thảo sẵn chiếu thư đăng cơ, mang theo bên người, phòng khi bất thường.

Sau nữa, tin đồn này cũng chẳng thể chứng thực, bởi bệnh tình kim thượng rốt cuộc cũng khởi sắc.

Từ khi công chúa bằng lòng ăn cơm, sức khỏe mỗi ngày một tốt lên, không bao lâu đã có thể xuống giường đi lại. Một lần nọ, nàng lưỡng lự mãi rồi thấp thỏm hỏi Miêu thục nghi, nếu bây giờ nàng đi thỉnh an phụ thân thì liệu ngài có ngó lơ mình không.

Vẫn chưa có ai nói cho nàng hay bệnh tình của kim thượng, bởi mọi người đều phải tuân lệnh hoàng đế, cũng sợ tin kim thượng ốm bệnh sẽ gây ảnh hưởng đến công chúa. Tình hình công chúa khi đó cũng chẳng lấy gì làm tốt đẹp, hơn nữa, bệnh của kim thượng kể ra cũng có chút liên quan tới nàng.

Thấy tinh thần công chúa dần tốt lên, nước mắt Miêu thục nghi nín nhịn hồi lâu rốt cuộc cũng bật ra, nức nở nói cho con gái tình hình của kim thượng.

Công chúa nghe xong vừa khiếp sợ vừa đau lòng, lập tức chạy đến Phúc Ninh Điện thăm phụ thân. Khi ấy kim thượng đang nhắm mắt ngủ, công chúa quỳ gối trước giường bệnh ngài, khe khẽ gọi: "Cha."

Kim thượng từ từ mở mắt, mơ màng nhìn chằm chằm con gái một lát mới nhận ra, vươn tay về phía nàng, thì thào: "Huy Nhu..."

Hai tay công chúa nắm lấy tay ngài, dịu dàng đáp: "Cha, Huy Nhu ở đây."

Kim thượng trở tay nắm ngược lại tay con gái, gân xanh trên mu bàn tay khô gầy nổi lên, siết chặt như thể muốn bắt lại điều duy nhất có thể giữ sinh mạng cho mình. Đôi môi khô róc tái nhợt chậm rãi giật giật, ánh mắt ngài nhìn công chúa mơ hồ mà bi thương: "Huy Nhu, cha chỉ có con..."

Công chúa hơi ngửa đầu lên như muốn để nước mắt chảy ngược về tim, lại gắng nén tiếng khóc, cố sức cười với phụ thân: "Cha, hoa ở Quỳnh Lâm Uyển, Nghi Xuân Uyển lại nở rồi, cha mau khỏe lại đi, dẫn con gái đi xem."

Kể từ đó, hằng ngày, phần lớn thời gian của công chúa đều là ở bên cha, cẩn thận phụng dưỡng ẩm thực sinh hoạt của ngài cùng Thu Hòa và những tần ngự khác. Sau, tâm trạng của kim thượng dần ổn định, nhưng tinh thần trước sau vẫn uể oải, song không còn xảy ra tình trạng thi thoảng lại ngất nữa.

Văn Ngạn Bác và mấy vị chấp chính mỗi ngày đều vào Phúc Ninh Điện, bẩm tấu sự vụ trước giường bệnh khi tinh thần kim thượng thanh tỉnh rõ ràng. Kim thượng nói năng rất trắc trở, đại để chỉ gật đầu.

Văn Ngạn Bác thấy hiệu quả liệu pháp của thái y quá nhỏ, bèn đích thân tham dự vào việc trị liệu chi tiết, nhiều lần nghiên cứu liệu pháp đơn thuốc cùng thái y và hoạn giả Ngự dược viện. Có lần, ông nhợt nhớ tới chuyện Trương tiên sinh châm cứu, sau khi hỏi kỹ quan điểm của Trương tiên sinh về tác động cụ thể của châm cứu đối với bệnh tình kim thượng, ông lại gọi chúng thái y đến, thương thảo với họ tính khả thi nếu tiếp tục sử dụng thuật châm cứu chữa trị cho kim thượng.

Chúng thái y dè dặt tỏ ý châm cứu hẳn là hữu hiệu, song huyệt vị vốn nhỏ, không được sai một ly, cần người tinh thông thuật này hành châm. Họ đùn đẩy lẫn nhau, đều không muốn đứng ra chủ trị, cuối cùng, Trương tiên sinh một lần nữa chủ động nhận việc về mình: "Nếu tướng công tín nhiệm Mậu Tắc, Mậu Tắc ắt sẽ làm hết sức, chỉ mong chúa thượng sớm ngày hồi phục lên triều."

Sau khi cân nhắc thận trọng, Văn Ngạn Bác chấp nhận lời thỉnh cầu của thầy, nhưng lại gặp phải vấn đề lớn nhất là kim thượng có bằng lòng phối hợp hay không.

Vì thế, Trương tiên sinh cầu kiến công chúa, nhất nhất báo lại tình huống, khẩn cầu nàng thuyết phục kim thượng đồng ý trị liệu.

Bấy giờ, công chúa đã biết việc kim thượng nói hoàng hậu và Trương Mậu Tắc "mưu nghịch", thế nên rất do dự, cũng không dám chắc có thể thuyết phục được kim thượng. Ta hiểu nỗi lo lắng của nàng, bèn đề nghị: "Mỗi ngày sau mặt trời lặn, quan gia đều sẽ buồn ngủ, tinh thần ngẩn ngơ, không nhận biết rõ được ai với ai. Nếu Trương tiên sinh che mặt vào châm cứu cho ngài lúc ấy, chưa chắc ngài đã biết là thầy. Trong khoảng thời gian đó, công chúa canh giữ bên quan gia, thỉnh thoảng nói đôi câu dỗ dành, hẳn là có thể khuyên ngài chấp nhận trị liệu."

Việc này bèn tiến hành như thế. Trước khi Trương tiên sinh vào gác ngủ của kim thượng, công chúa đã nhỏ nhẹ khuyên phụ thân cho phép lương y dân gian nàng tìm về chữa trị, nói người nọ dùng liệu pháp đốt ngải, nhưng cần đâm nhẹ hai kim sau đầu, chỉ như muỗi đốt thôi, sẽ hơi sưng nhưng không quá đau. Kim thượng mơ mơ màng màng, thuận miệng bằng lòng, công chúa bèn gọi Trương tiên sinh vào.

Trương tiên sinh che mặt, quỳ xuống thỉnh an. Sau bận thắt cổ tự tử, giọng thầy vẫn chưa hồi phục, khàn khàn trầm thấp, kim thượng không nghe ra là thầy nhưng thấy thầy che mặt thì tỏ vẻ nghi hoặc.

Công chúa lập tức giải thích với ngài: "Cha, nhiều năm trước người này từng phạm chút tội vặt trong quân doanh, bị phạt thích chữ, trên mặt có sẹo, để tránh cha thấy bất an, con gái đã bảo y che mặt lại."

Kim thượng gật đầu, nghe theo lời công chúa thỉnh cầu, cúi người nằm sấp, nhắm mắt.

Lúc Trương tiên sinh găm kim vào sau đầu ngài, kim thượng bỗng chấn động, mở to mắt vẻ sợ hãi, thân mình giật giật như muốn xoay người ngồi dậy.

Công chúa kịp thời ghìm ngài xuống, một tay xoa lưng ngài, một tay nắm tay ngài, ôn hòa dỗ dành: "Cha, con gái ở đây, con gái ở đây..."

Dưới sự trấn an của nàng, hô hấp kim thượng dần bình ổn lại, công chúa tiếp tục nhỏ nhẹ: "Không sao đâu, một lúc là ổn thôi, cha sẽ khỏe ngay thôi..."

Trong bầu không khí yên bình do giọng công chúa tạo nên, kim thượng một lần nữa nhắm hai mắt lại, yên lặng nằm sấp, phối hợp với liệu pháp của Trương tiên sinh với trạng thái tốt nhất mà một bệnh nhân có thể biểu hiện.

Sau đó, thời gian như ngừng lại trong gác ngủ, gần như tất cả mọi người đều duy trì tư thế bất động, bao gồm cả hoàng đế trên giường bệnh và người hầu hạ ngài, cùng với tể chấp và hoàng hậu ngồi cách đó không xa ngoài bức rèm châu. Sóng mắt người xem đều tập trung hết lên kim thượng, chỉ có ánh sáng loe lóe của mũi châm trong tay Trương tiên sinh và động tác tay lên xuống của thầy là còn lưu động trong không gian thinh lặng này.

Sau khi rút cây kim cuối cùng ra, Trương tiên sinh lùi ra phía sau, ra hiệu cho công chúa đỡ kim thượng xoay người nằm ngửa lại, kim thượng lại mở mắt trong khoảnh khắc, tự mình chống người ngồi dậy.

Mơ màng ban đầu trong mắt đã tiêu biến, hai mắt ngài trông rõ sáng trong, rất có thần thái. Sau một lượt nhìn quanh sự vật trong phòng, ngài mỉm cười nói với công chúa: "Tỉnh táo ra thật."

Ý câu này chỉ tai mắt rõ ràng, đầu óc minh mẫn. Người trong ngoài rèm châu nghe vậy đều mừng rỡ ra mặt, sôi nổi hạ bái chúc mừng, chỉ duy Trương tiên sinh không nói một lời, thừa dịp mọi người nói cười lặng lẽ lui ra ngoài.

Hôm sau, thánh thể kim thượng an khang, đứng dậy đi lại thậm chí còn không cần người đỡ. Tể chấp vào yết kiến, ngài cũng có thể ung dung mở miệng ứng đối, cơn bệnh nặng kéo dài suốt bao ngày nay như thuyên giảm được phân nửa.

Vài ngày sau, công chúa vẫn phụng dưỡng bên phụ thân. Một buổi sớm nọ, kim thượng uống xong bát thuốc công chúa dâng, đột nhiên hỏi nàng: "Tay lương y chịu hình thích mặt chữa khỏi bệnh cho cha ngày đó đi đâu rồi? Có thể triệu đến được không, cha muốn thưởng cho hắn vài thứ."

Công chúa chần chừ, đáp: "Hiện giờ y đã không còn trong cung..."

"Ồ, thế y ở đâu?" Kim thượng truy vấn, lại nói: "Bất kể y ở đâu cũng phải tìm bằng được. Lập được công lớn như vậy, không thể lười biếng coi khinh y được."

"Dạ..." Công chúa ưng thuận, nhưng có lẽ là đang nghĩ xem phải ứng phó với yêu cầu này của phụ thân thế nào, vẻ mặt nàng không được tự nhiên cho lắm.

Kim thượng vẫn quan sát nàng đó giờ, không khỏi mỉm cười: "Người ấy là Mậu Tắc đúng không?"

Công chúa kinh ngạc, nhất thời không biết phải trả lời sao. Mà kim thượng cũng chẳng phải thực sự chờ đợi đáp án của nàng, tự mình nói tiếp: "Lúc hắn găm kim vào sau đầu cha, cha đã ý thức ngay ra được người châm cứu là hắn, bởi cha mãi mãi sẽ không bao giờ quên cảm giác bị kim đâm vào cùng một huyệt vị. Cha rất sợ hãi, suýt nữa lại muốn vùng dậy kháng cự, thế nhưng, Huy Nhu, con nói với cha con đang bên cạnh cha... Con là con gái duy nhất của cha, con nhất định sẽ không hại cha con... Nghĩ tới đó, cha lại an lòng..."

Nói đến đây, ngài lại cười cười như tự giễu, nói: "Thực ra, khi ấy cha còn có một nghi vấn mà bây giờ nghĩ lại cảm thấy rất buồn cười nữa: Lỡ như con theo Trương Mậu Tắc hại cha thì sao? Sau lại nghĩ, nếu đến con cũng muốn hại cha thì cha sống trên đời còn có nghĩa lí gì? Là tốt hay xấu hà tất phải xen vào nữa, chẳng bằng mặc các con thao túng cho rồi. Thế nên, cuối cùng cha hoàn toàn không phản kháng..."

Ngài nói những lời này vẫn một mực mỉm cười, nhưng công chúa nghe vào lại rất bức bối, không khỏi cất tiếng gọi "Cha" như muốn giải thích điều gì, kim thượng đặt ngón tay lên môi ra hiệu nàng đừng nói, cười bảo: "Không phải nói gì hết, điều con muốn nói, cha đã biết cả rồi."

Công chúa dựa sát vào phụ thân, ôm lấy cánh tay phải của ngài, nhoẻn một nụ cười điềm tĩnh, tựa đầu lên vai ngài.

Kim thượng cũng ngậm cười an hưởng giờ khắc an bình này, lát sau, ngài nghiêng đầu liếc ta, ôn hòa phân phó: "Hoài Cát, ngươi đi mời Mậu Tắc qua đây."

Đợi Trương tiên sinh tiến vào, kim thượng nói với thầy: "Ngạn Bác khen với trẫm chuyện ngươi phụng dưỡng trông dìu trong lúc trẫm mê ốm, mà ngươi còn dùng kim châm chữa khỏi cơn trọng bệnh này, theo lý trẫm phải luận công ban thưởng. Nay thăng ngươi làm nhập nội nội thị tỉnh áp ban, về sau hầu hạ bên người trẫm khi bách quan vào điện gác yết kiến hoàng đế, quản lý sự vụ, có thể lên điện bẩm tấu..."

Ngài còn chưa dứt lời, Trương tiên sinh đã khấu đầu bái lạy, nói: "Bệ hạ, phụng dưỡng trông dìu là trách nhiệm bổn phận của thần, chưa được bệ hạ cho phép đã châm cứu thì lại là trọng tội phạm thượng, bệ hạ nhân từ rộng lượng, không truy cứu tội lỗi của thần, thần đã cảm động đến rơi nước mắt rồi, sao dám tranh công xin thưởng, yên lòng kề cạnh! Thần vào hầu thiên gia đã hơn ba mươi năm, chẳng làm nên trò trống gì mà vẫn được hưởng ơn nước sâu nặng, liên tiếp thăng chức, thật xấu hổ lắm thay. Thế nên, thần khẩn cầu bệ hạ bổ thần ra ngoài, cho thần một chức ngoại quan mọn, điều khỏi kinh sư. Thần chịu hưởng thánh ân, chắc chắn sẽ kính cẩn tận trung với cương vị quận ngoài, gắng vì quân vương phân ưu được chút nào hay chút ấy."


10. Gãy cánh

Không phải kim thượng không mở miệng giữ lại, nhưng Trương tiên sinh năm lần bảy lượt khăng khăng, sau hai ngày suy nghĩ, kim thượng bằng lòng lời thỉnh cầu của thầy, truyền chiếu: Bổ nhiệm nội tây đầu cung phụng quan, chưởng quản Ngự dược viện, Trương Mậu Tắc làm cung uyển sứ, Quả Châu đoàn luyện sứ, Vĩnh Hưng Lộ binh mã kiềm hạt.

"Lần này tiên sinh đi bao lâu thì về?" Ta hỏi riêng thầy.

Thầy chỉ cười, không trả lời.

Nhưng xem biểu hiện của thầy có vẻ như không có ý định trở về. Thầy chia hết bổng lộc tích lũy không dùng đến cho thuộc hạ, đó là một khoản tiền rất lớn nhưng nhiều năm qua lại chỉ bị thầy chất đống trong góc, hàng ngàn hàng vạn xâu mà như chưa bao giờ được thầy xem kỹ, phần lớn đến niêm phong trên giấy gói cũng chưa từng mở ra.

Bị thầy đem làm quà tặng cho người khác còn có rất nhiều châu báu vải vóc đồ cổ đế hậu ban thưởng, cuối cùng, phòng thầy trống không, ngay cả gia cụ lặt vặt hơi tốt cũng bị người khác lấy sạch, mà trong bọc hành lý thầy định mang đi thì ngoài văn kiện công vụ ra, chỉ có vài món quần áo giặt thay và mấy xâu lộ phí cần thiết.

Thầy không quên ta, một ngày trước ngày khởi hành, đặc biệt mời ta qua, chọn lọc mấy thỏi mực cổ thượng đẳng, nghiên mực Đoan Khê và bánh trà long phượng thầy cất giữ cẩn thận cho ta. Ta tạ ơn nhưng không nhận, thấy trong phòng thầy còn để lại ba rương lớn, nói: "Mấy cái rương này tiên sinh cũng mang đi ạ? Nếu muốn để lại trong cung thì cứ giao cho Hoài Cát giữ gìn tạm là được ạ."

Thầy hiểu ý ta, nói: "Hoài Cát, cảm ơn cậu. Ta cũng đang định giao phó mấy cái rương này cho cậu, nhưng không phải gửi gắm giữ gìn mà là muốn nhờ cậu thay ta tặng nó cho một người."

Ta gật đầu, mời thầy nói rõ: "Tặng ai ạ?"

"Quan gia." Thầy nói, lại bổ sung: "Chờ ta đi rồi hẵng tặng."

Lúc ta trở về gác, thầy tiễn ta tới cửa, ta hỏi thầy hôm sau xuất cung giờ nào, thầy cười nhạt nhòa, nói: "Sớm lắm, mấy ngày nay cậu cũng mệt chết rồi, nghỉ ngơi nhiều chút, khỏi tới tiễn ta."

Ta cũng không khăng khăng đòi đi tiễn thầy, cũng chẳng phải thật sự lười biếng hay tâm tính lạnh nhạt mà là rất sợ lại phải trải qua cảnh biệt ly này – cửa cung đóng lại chia lìa đôi ngả, cố nhân xa tận chân trời.

Giờ khắc này, nghĩ đến thầy sắp đi xa, tiền đồ lại mịt mờ, chẳng biết năm nao tháng nào mới có thể gặp lại, ta buồn bã khôn nguôi, bèn quỳ gối với thầy, rưng rưng lấy bốn lễ bái lạy trang trọng cáo biệt.

Thầy đưa tay đỡ ta, ôn hòa căn dặn: "Cậu cũng phải bảo trọng."

Lúc ta xoay người định rời đi, thầy chợt gọi ta lại, cụp mắt ngẫm nghĩ đôi lát, lại nhìn ta, nói: "Khi niên thiếu cậu từng hỏi ta, niềm vui của ta nằm tại đâu, tâm nguyện lớn nhất là gì. Hiện giờ, ta có thể trả lời cậu."

"Tâm nguyện lớn nhất của ta là làm một người đàn ông bình thường... Nhưng đời này đã định trước không thể nào thực hiện. Mọi lý tưởng mà hoạn giả như chúng ta có thể có cũng giống như cơ thể chúng ta vậy, đều không trọn vẹn." Thầy bình tĩnh nói, chầm chậm quay đầu nhìn vào phòng – trong bình hoa trên bàn hãy còn cắm nhành mai vàng tố tâm nay đã héo rụi, "Có điều, ta đã tìm được một người đáng giá, người gần như hoàn mỹ vô khuyết, nên có được một cuộc đời viên mãn. Ta hi vọng giúp người thực hiện tất cả tâm nguyện của người, thậm chí sống vì người, chết vì người... Nếu nói cuộc đời ta còn niềm vui nào thì hẳn chính là điều này."

Sống vì người, chết vì người... Ta ngẫm ngợi câu này, buồn bã nghĩ, đúng là thầy đã làm được.

"Cơ mà," Ta vẫn cảm thấy khó hiểu với quyết định của thầy hôm nay, "Nếu là vậy, sao tiên sinh lại hết lời tự xin điều ra ngoài? Rời xa người rồi, tương lai sao có thể giúp người thực hiện tâm nguyện?"

"Hiện giờ, ta phải đi." Thầy không hề úp mở, "Ta càng gần người, người người quý trọng nhất sẽ càng xa người."

Sáng sớm ngày kế, như thường lệ, ta theo công chúa đi vấn an trung cung, để tâm quan sát vẻ mặt hoàng hậu, cũng không tìm được chút cảm xúc đặc thù nào, chẳng hạn như u buồn hay đau thương.

Bà trầm tĩnh như nước, hiển nhiên không hề ra ngoài tiễn biệt Trương tiên sinh, thậm chí lúc nói chuyện với bọn ta cũng chẳng nhắc một câu nào tới thầy, chỉ hòa nhã trò chuyện những chủ đề thường nói, tỉ mỉ bàn về sở thích hằng ngày của kim thượng, dặn bọn ta phải chăm sóc ngài thật tốt.

Có điều, hôm ấy, trong điện gác của bà bồng bềnh hương mai vàng tố tâm.

Khi ta mang mấy cái rương chứa đầy những cuộn phi bạch cũ đến Phúc Ninh Điện, hoa đào mận trước điện nối nhau đơm bông, sắc xuân đã dạt dào.

Ta dẫn mấy tên tiểu hoàng môn bê rương nhẹ nhàng lại gần, xuyên qua những cành hoa đậm nhạt đỏ trắng, thấy kim thượng tựa mình ngồi trên giường mềm kê tạm ngoài hiên ngắm hoa, đầu chít khăn, khoác áo choàng, dáng người tuy gầy gò nhưng thần sắc sáng láng, phong thái thảnh thơi, đã không còn dáng vẻ ốm bệnh suy sút.

Thu Hòa đang làm bạn bên ngài, chắc là kim thượng muốn kiểm tra vết thương trong lòng bàn tay cô, cô quỳ bên giường mềm, chìa tay trên đầu gối ngài, kim thượng đỡ lấy tay cô, ngón tay khe khẽ vuốt ve vết thương, thương xót vô hạn.

Chợt có gió nổi lên, chiếc váy dài lĩnh sa và tấm áo ngắn thân đối bằng la nhẹ của Thu Hòa khá mỏng, cô bị lạnh, không kìm được hắt hơi một cái. Chưa kịp xin lỗi, kim thượng đã mở rộng áo choàng, kéo cô vào lòng, che gió cho cô.

Cảnh tượng ấy làm chậm lại bước chân ta, ta hơi lùi xuống rồi mới đi lên.

Thu Hòa vừa trông thấy ta đã đứng vụt dậy, lùi chếch ra sau kim thượng, son vương khắp mặt.

Ta quy củ thi lễ với kim thượng rồi quay sang vái chào Thu Hòa: "Đổng nương tử..."

Kể từ khi hoàng hậu gọi cô là "Đổng nương tử", tất thảy cung nhân đều hiểu thâm ý trong đó. Trong khoảng thời gian kim thượng ốm bệnh, hoàng hậu đóng gác, Thu Hòa phụng dưỡng trước giường bệnh kim thượng với thân phận tần ngự. Bây giờ, kim thượng đã thăng cô lên làm ngự thị, phong hiệu "Văn Hỉ huyện quân", danh phận trong cung tịch của cô đã chính thức từ nữ quan chuyển thành tần ngự thiên tử.

Xem ra đó giờ cô vẫn chưa thích ứng được với thân phận mới, thấy ta thi lễ, cô cũng kéo vạt váy hoàn lễ theo bản năng, hoàn toàn quên mất hiện giờ cô cũng là chủ tử của ta rồi.

Để tránh cho Thu Hòa xấu hổ, ta không nhìn cô nhiều, quay sang lệnh tiểu hoàng môn đặt rương xuống, nói rõ ý dâng tặng lễ vật của Trương tiên sinh với kim thượng.

"Trong đó là thứ gì?" Kim thượng không hiểu, hỏi.

Ta mượn cớ đáp không biết, kim thượng bèn sai người mở rương ra.

Trăm ngàn cuộn giấy bỏ phi bạch được lấy ra, lần lượt bày trước mặt kim thượng. Sau khi tỉ mỉ xem hơn mười cuộn, vẻ mặt ngài cũng từ hoang mang ban đầu chuyển thành kinh ngạc, dần dần đổi sang buồn bã ảm đạm.

Điều này cũng xác nhận suy đoán trong lòng ta về những nét mực này được phác ra dưới ngòi bút của ai.

Trong mười mấy hai mươi năm đằng đẵng, bà trốn trong gác điện nơi ngài nhìn chẳng đến, nắn nót từng nét, mà một người khác lại lặng yên đứng sau lưng bà, thu giữ từng cuộn... Ẩn tình trong đây muốn nói lại thôi, nhưng chồng giấy cũ này tuy vĩnh viễn duy trì tư thế trầm mặc song lại có thể coi là người rõ chuyện đáng tín nhiệm nhất, chứng cớ như núi, còn hơn ngàn lời vạn chữ của người ngoài.

"Thủ Trung," Sau, kim thượng mở lời, gọi Nhậm Thủ Trung hầu hạ trước điện lại, "Ngươi bẻ vài nhành hoa tặng cho hoàng hậu, truyền mấy câu cho ta: Hôm nay trời trong nắng ấm, điện ngọc thanh tân, hẳn sắc đêm tối cũng sẽ rất đẹp, tại sao không cùng tới thủy điện trong Hậu uyển, thưởng thức trăng sáng giữa tán tùng?"

Đó là một cái kết hoàn mỹ, ta vui mừng không làm phụ phó thác của Trương tiên sinh, bèn cáo lui xin đi, tâm trạng tối tăm nhiều ngày nay nhờ đó mà rốt cuộc cũng được quét lên một vệt sáng.

Ra đến cửa Phúc Ninh Điện, chợt nghe Thu Hòa gọi ta. Kinh ngạc quay đầu lại, thấy cô đã theo qua.

"Tôi tiễn huynh." Cô nhẹ nhàng nói.

Ta vội đáp: "Không dám làm phiền Đổng nương tử."

Cô cúi đầu, bảo: "Ở riêng mà nghe huynh gọi tôi vậy, tôi rất khó chịu."

Ta không tiếp lời, mãi sau mới hỏi cô: "Thu Hòa, cô có vui không?"

Cô chần chừ hồi lâu, trả lời thế này: "Quan gia rất tốt với tôi."

Ta gật đầu, ánh mắt rơi xuống bàn tay nắm hờ dưới ống tay áo cô: "Thương thế của cô đã lành chưa?"

Cô từ từ vươn bàn tay trái bị thương ra, lòng bàn tay hướng lên trên, mở ra trước mắt ta: "Huynh hỏi cái này à?"

Trên bụng ngón tay và lòng bàn tay láng bóng như ngọc của cô nhiều thêm hai vết thương xấu xí, tuy đã đóng vảy nhưng vết sẹo gồ ghề nổi hằn, nhìn mà rùng mình. Nhưng kết quả được vậy đã là không tệ rồi, ban đầu xem thương thế của cô, rất nhiều người đã cho là cô sẽ đứt mất ngón tay.

Đối mặt với câu hỏi của cô, ta gật đầu đáp phải.

Cô cười nhạt nhòa: "Cái này là cánh gãy, không lành được."

Ta ngẩn người, không hiểu được ý cô ngay.

Cô đưa mắt truy tìm cánh nhạn nơi chân trời, rầu rầu nói: "Hoài Cát, tôi bị vây hãm trong đây rồi, không thể bay ra ngoài được nữa."


11. Tháp Phồn

Sau khi phong ba ốm bệnh lắng xuống, phu nhân Lý quốc cữu vào cung, bóng gió với kim thượng Lý Vĩ và công chúa đã lớn, đã tới thời điểm thành hôn. Kim thượng bèn hạ lệnh trích ngân khố lấy chi phí xây dựng phủ công chúa, giao cho Lý Vĩ trông coi, tiếp đó lại bàn hôn kỳ.

Không bao lâu sau, một vài thành phần chỉ e thiên hạ không loạn đã gắng "đánh rơi" một tờ triều báo trước cửa Nghi Phượng Các, bên trên ghi nội dung tấu chương gián quan Phạm Trấn tố cáo phò mã Lý Vĩ: "Nhà phò mã đô úy Lý Vĩ giật dây con em, thu nhận đến bốn, năm mươi cử nhân làm môn khách, đều là hạng vô lại số đỏ con nhà phú hào. Lại xây dựng dinh chính, công dịch thái quá... Lý Vĩ còn trẻ, đương lúc dốc lòng cầu học mà lại để nhiều hạng vô lại số đỏ bên cậu như vậy, xây dựng nhà cửa, xa xỉ quá mức, không phải là điều tốt với cậu..."

Về sau, tờ triều báo này truyền tới tay ta, khi ấy Trương Thừa Chiếu đang ở cạnh ta, sáp lại cùng xem, cười nói: "Thực ra việc này từ lần trước mẹ phò mã vào cung đã khoe khoang ra rồi. Nghe nói bà ta thổi phồng con trai mình lên với quan giá, nói hắn không qua lại với dân thường, bạn bè đều là con em thế gia giàu có, Lý Vĩ giao lưu với họ, chi phí phục sức đều không thua ai, đi đâu cũng có hơn mấy chục người tiền hô hậu ủng, nghiễm nhiên cũng là một quý công tử phong thái thanh cao... Bà ta còn cố ý đòi thêm tiền quan gia, nói phò mã muốn xây sân đánh bóng trong phủ công chúa, quan gia cũng chấp thuận thật luôn."

Ta hỏi Trương Thừa Chiếu: "Người trong cung có thường xuyên bàn tán việc này không?"

"Lại chẳng," hắn đáp, "Phu nhân quốc cữu vừa đi, người hầu bên quan gia đã thầm cười nhạo, nói tiền giấy nhà bà ta in biến thành tiền thật, chẳng biết phải tiêu thế nào nên chỉ hận không thể dán lên mặt, đắp lên người, cho tất cả mọi người đều nhìn thấy."

Ta châm lửa đốt tờ triều báo, lại nhắc hắn: "Đừng bàn tán chuyện này trước mặt công chúa, không thể để người nghe thấy được."

Hắn luôn miệng đồng ý. Nhưng người biết chuyện này chẳng ít ỏi gì cho cam, chắc chắn đã có vài người lắm mồm để lộ chút tin tức với công chúa, vài ngày sau, công chúa rõ ràng buồn bực hơn hẳn khi trước, ngoại trừ lúc vấn an đế hậu thì đều đóng cửa không ra, thường hay thẫn thờ đã đành, có lúc gảy không hầu, đang đàn thì lác đác nhỏ lệ.

Sau khi quan gia hồi phục, ai nấy đều ăn ý không nhắc đến việc công chúa từ chối hôn sự và về Tào Bình, làm như chuyện chưa từng xảy ra, bao gồm cả chính công chúa, thế nên sự bất mãn của nàng đối với mối hôn sự này chỉ có thể chuyển hóa thành nỗi bi thương thầm lặng, gặm nhấm niềm vui và sức khỏe của nàng như tằm ăn lá dâu, khiến nàng mỗi ngày một tiều tụy.

Miêu thục nghi chứng kiến, tuy rất xót ruột song cũng chẳng thể làm gì, chỉ có thể ngày ngày khấn thần vái phật, thắp hương cầu xin, lần nào miệng cũng lầm rầm, lại nghe không rõ cụ thể bà đang nói gì.

Một ngày nọ, bà nói với công chúa, trong khoảng thời gian kim thượng và công chúa ốm bệnh, bà từng đi chùa Thiên Thanh, cầu nguyện trước xá lợi của Phật Định Quang, cầu khấn cho phu quân và con gái sớm ngày khỏi bệnh. Bây giờ tâm nguyện đã thành, hẳn là nên đi lễ tạ thần, công chúa cũng nên đi cùng với bà, tỏ lòng thành kính biết ơn.

Công chúa chẳng hứng thú gì với chuyện này, nhưng không cưỡng nổi mẫu thân thuyết phục, cuối cùng đồng ý đi cùng bà.

Chùa Thiên Thanh xây vào thời Hậu Chu Thế Tông, trong chùa có một tháp thờ tên là tháp Hưng Từ, thờ cúng xá lợi Phật Định Quang, nhưng người kinh đô thường gọi nó bằng cái tên thông tục, tháp Phồn. Thân tháp cao ngất, ca dao dân gian Đông Kinh hát rằng: "Tháp sắt cao, tháp sắt cao, đến eo tháp Phồn sao mà cao."

Ta cùng vài nội thị, nội nhân theo Miêu thục nghi và công chúa men theo lối đi xoay vòng trong tháp Phồn lên trên, leo hồi lâu mới đến được am thờ Phật, tại đây phóng mắt ra ngoài cửa sổ, cảnh tượng trông thấy hệt như những lời Tô Thuấn Khâm vịnh tháp Phồn trong thơ: "Xe ngựa tựa sâu kiến, sông lớn như mương đục."

Bái tế xong xá lợi, công chúa đưa mắt nhìn quanh, phát hiện ra vách trong khảm rất nhiều viên gạch có hoa văn hình phật, trong đó có một nhóm viên gạch có hình ca vũ quanh Đế Thích Thiên, miêu tả cảnh nghệ nhân tấu tỳ ba, tù và, trống hạt, chũm chọe, sáo ống, tiêu, đường nét rõ ràng, phong thái có hồn, trông rất sống động.

Công chúa dần bị thu hút, xem kỹ từng cái, đúng lúc ấy Miêu thục nghi chợt nói: "Chỗ này cao, gió lại lớn, ta hơi đau đầu, xuống trước đây."

Công chúa nghe vậy muốn đi cùng bà, Miêu thục nghi lại xua tay, nói: "Con đã thích xem hình vẽ trên mấy viên gạch này thì cứ nán thêm chốc nữa xem cho đã đi. Ta vào đại điện chùa thắp hương trước, lát nữa con xuống cùng Hoài Cát là được."

Nói đoạn dẫn đám người hầu còn lại cùng phương trượng và tăng nhân tiếp khách rời đi, trước khi đi còn lén nháy mắt với ta, đánh mắt về phía công chúa như có ý giao phó. Ta chỉ nghĩ chắc bà bảo ta chăm sóc công chúa cẩn thận, bèn khom người gật đầu, tỏ vẻ tuân mệnh.

Công chúa tiếp tục xem hình vẽ nghệ nhân tấu nhạc trên viên gạch, cuối cùng ánh mắt đậu lại thật lâu trên hình nghệ nhân thổi sáo, đại khái lại nhớ tới chuyện đã qua, nàng ưu tư ngẩn ngơ, không để ý đến tiếng bước chân vang lên trên lối gỗ trong tháp sau đó, mãi đến khi có người đi tới sau lưng nàng, cất tiếng gọi nàng "Công chúa", nàng mới bất chợt kinh hãi tỉnh táo lại.

Trong chớp mắt quay đầu lại, nàng chẳng biết là vui hay buồn, nụ cười trên mặt lóe rạng rồi lại tắt phụt, bắt lấy cổ tay người tới như muốn xác nhận sự hiện hữu của cậu, hoặc giả là sợ cậu đột ngột biến mất. Hai mắt hàm lệ nhìn đăm đăm vào cậu, nàng nghẹn ngào khẽ giọng: "Tào ca ca... Chàng có khỏe không?"

Khóe miệng Tào Bình khẽ nhếch, song lại là một nụ cười thê thiết. Đã lâu không gặp, cậu gầy đi nhiều, quầng mắt thâm sạm, ánh mắt đờ đẫn, khác xa dáng vẻ khí phách trước kia.

Cậu nhẹ nhàng rút tay ra, tránh khỏi sự đụng chạm của công chúa, lùi ra sau hai bước, cúi người đáp: "Nhờ phúc của công chúa, thần vẫn khỏe, tạ công chúa nhớ mong."

Cử chỉ khẩu khí cậu mang cảm giác xa cách rõ rệt, không khỏi khiến công chúa sửng sốt. Ta thầm nghi đó là bởi có ta ở đây làm cậu băn khoăn, bèn tránh ra ngoài cửa, nhưng cũng không dám đi xa, thế nên đứng hầu chờ bên cửa.

Bởi khoảng cách vẫn gần nên có thể nghe được đối thoại giữa họ về sau. Kế đó, người mở miệng trước vẫn là Tào Bình, cậu bình tĩnh lễ phép nói với công chúa: "Công chúa, lần này thần tới là để chào từ biệt người. Thần sắp đi Tị Thủy, trông mộ cho cụ cố, sau này e rằng không còn cơ hội yết kiến công chúa, thế nên hôm nay đến đây nói lời từ biệt, mong công chúa bảo trọng..."

Cậu chưa nói hết, công chúa đã khiếp hãi quá chừng, run giọng hỏi: "Chàng phải rời kinh sư? Tại sao? Là ai bắt chàng đi? Cha em? Hay là nương nương?"

Tào Bình đáp: "Công chúa đừng đoán mò, là thần cam tâm tình nguyện đi, cũng không phải do ai bức bách."

Công chúa không tin, trong giọng nói đã nhuốm tiếng lệ: "Tại sao chàng phải đi? Chờ em, em sẽ nghĩ cách... Đợi sức khỏe cha tốt hơn chút nữa, em sẽ xin cha thành toàn cho chúng ta... Cha rất tốt với em, nhất định sẽ bằng lòng..."

"Công chúa," Tào Bình ngắt lời nàng, hỏi ngược lại: "Người có chắc chắn rằng dượng sẽ chấp thuận lời thỉnh cầu của người hay không? Người có thể đảm bảo những chuyện không hay xảy ra trước đây sẽ không tái diễn nữa không?"

Công chúa không đáp lại được. Tào Bình buông một tiếng thở dài, nói tiếp: "Trước đây thần từng nghĩ như công chúa, cho rằng dượng yêu thương công chúa, cô còn là hoàng hậu, nếu chúng ta cố gắng, lại có cô khuyên nhủ bên cạnh, dượng nhất định sẽ chấp thuận lời thỉnh cầu của chúng ta. Nhưng, giờ đây khi nhìn lại, là chúng ta đã nghĩ việc này quá đơn giản."

Công chúa vẫn lặng thinh, Tào Bình lại nói: "Ngày đó từ Quốc tử giám trở về, thần nói chuyện của chúng ta với cha mẹ. Mẫu thân thần cả kinh thất sắc, khóc lóc mắng thần không hiểu chuyện, cha không nghiêm phạt gì thần, chỉ nói một câu: 'Nếu quan gia bằng lòng gả công chúa cho con thì ngài đã làm thế từ mười năm trước rồi.' Sau đó, cha xoay người sang thư phòng, viết sớ thỉnh cầu bãi quan chịu tội... Kể từ đó nhà thần bị người Ty hoàng thành giám thị, ai ra vào cũng bị kiểm tra... Dượng không khỏe, thậm chí còn nói ra lời 'Hoàng hậu mưu nghịch', tộc nhân nhà thần hay tin, trên dưới đều lo âu thấp thỏm. Tộc trưởng hỏi đến, phụ thân thuật lại chuyện của thần, tộc trường vừa thương vừa giận, bất chấp bệnh nặng trong người, tự mình chống gậy tới trước mặt thần, nói: 'Lần này mà có sai lầm gì, đừng nói đến trăm năm vẻ vang cụ cố con dành trọn một đời trên lưng ngựa đổi lấy cho Tào thị mà mấy trăm mạng người từ trên xuống dưới tộc họ Tào có bảo toàn được hay không cũng còn chưa rõ đâu!'"

"Cha sẽ không làm vậy!" Công chúa bác bỏ, "Câu nói khi ấy chỉ là lời mê sảng..."

"Lời mê sảng khi ốm bệnh thực ra cũng giống như lời túy lúy khi say rượu vậy, ít nhiều đều có thể để lộ phần nào suy nghĩ nội tâm." Tào bình nói. Ngữ điệu cậu vẫn chẳng gợn sóng gió, hẳn là mấy ngày nay đã suy nghĩ rất nhiều, lời nói với công chúa lúc này chỉ là kết luận thu được trong lòng, "Cũng phải đến lúc đó thần mới biết được, thì ra cô chẳng hề được dượng tin cậy sâu sắc, ngồi vững trung cung, không thể lung lay như thần từng tưởng. Mà hành vi càn rỡ của thần thì càng khiến dượng hiểu lầm cô sâu hơn, nói không chừng, ngài còn cho rằng là cô bảo thần đi dụ dỗ công chúa..."

Công chúa liên tục phủ nhận: "Không phải, cha không nghĩ như thế..." Song, câu nói không qua suy nghĩ của nàng lại có vẻ vô cùng yếu ớt.

"Người nghe thần nói hết đã, công chúa." Tào Bình ngăn nàng lại, giọng nói lúc này rất đỗi dịu dàng, phần nào ấm áp hơn vẻ xa cách khách khí trước đó, "Thần không ngờ hành động của mình lại gây ra nhiều ảnh hưởng lớn đến vậy cho gia tộc... Trưởng bối trong nhà lo nghĩ phẫn nộ, phụ thân mặt ủ mày chau, mẫu thân lấy nước mắt rửa mặt, anh em bị cấm túc trong nhà, mà cô em gái từng giúp thần đưa ô cho công chúa thì bị vội vàng hứa gả cho một người em ấy không thích, bởi cha mẹ thần cho rằng, tương lai lỡ có bất trắc, gia tộc người ấy cũng có thể bảo đảm tính mạng cho em... Nhưng người chật vật nhất hẳn là cô, thần không sao tưởng tượng được đối mặt với lời chỉ trích 'mưu nghịch' của dượng, cô đã phải trải qua tình cảnh gian nan thế nào trong cung."

Tạm ngừng một chốc, cậu còn nói: "Thần nghĩ, cảm nhận của công chúa trong khoảng thời gian ấy chỉ có tệ hơn thần. Thế nên, công chúa, hiện giờ mọi chuyện đã qua, vậy hãy duy trì hiện trạng này đi, chúng ta đừng sai lầm tiếp nữa, đừng để lại ảnh hưởng đến những người ta yêu thương."

"Vậy người chàng yêu thương có bao gồm em không? Nếu duy trì hiện trạng này, em sẽ phải lấy tên Lý Vĩ ngu dốt gớm ghiếc kia, đến lúc đó em sẽ phải sống thế nào?" Công chúa hỏi cậu.

Tào Bình không đáp. Chính lúc này, tâm trạng công chúa thoắt đổi, bỗng tràn ngập hi vọng nói: "Hay là chúng mình bỏ trốn đi, chúng mình bỏ trốn từ đây, đến nơi không ai có thể tìm ra chúng mình..."

"Công chúa!" Tào Bình cao giọng gọi nàng, lấy việc nâng cao âm điệu lên đôi chút để ra hiệu bảo nàng bình tĩnh lại. Kế đó, cậu buông một câu khiến công chúa triệt để câm bặt: "Thần rất thích công chúa, vậy nhưng, thần yêu người nhà của thần hơn."

Ngữ âm chấm dứt tại đó, trong tháp bảng lảng khói xanh, ngoài thềm mây trôi lững lờ, ta dỏng tai lắng nghe, lại chỉ nghe thấy đứt quãng tiếng gió bị cắt vụn thổi xuyên qua dòng thời gian tĩnh lặng trang nghiêm trước am thờ.

Sau nữa, âm thanh vang lên là tiếng đầu gối chạm đất, Tào Bình bái lạy công chúa: "Thần chúc công chúa bình an hạnh phúc, thọ tựa nam sơn, hưởng phúc muôn đời."

Lễ xong, cậu sải bước ra khỏi cửa, trước khi xuống tầng, cậu xá ta một vái thật sâu, nói: "Lương tiên sinh, về sau xin tiên sinh hao tâm, chiếu cố thật tốt cho công chúa."


12. Ấm cúng

Lúc vào tìm công chúa, nàng đã đi tới lan can ngoài tháp, đứng trong gió mạnh thét gào, cụp mắt nhìn xuống hồng trần vạn trượng, tay áo phấp phới, lảo đảo chực ngã.

Ta lập tức chạy qua, một tay tóm chặt cánh tay nàng, kéo nàng xoay người.

Con ngươi đờ đẫn của nàng như đang nhìn ta, nhưng trong mắt trống rỗng, rõ ràng là nhìn như không thấy.

"Công chúa, phải về rồi." Ta nhẹ nhàng nói với nàng.

Nàng gật đầu, rất yên lặng để ta đỡ mình xuống tầng.

Trên đường hồi cung, nàng vẫn yên lặng như cũ, không nói nửa lời, cũng không nhỏ lệ, về tới gác đi thẳng vào phòng ngủ, như thể chỉ là mệt mỏi, cần nghỉ ngơi nhiều thêm chút thôi.

Miêu thục nghi thấy nàng ngủ rồi mới lặng lẽ hỏi ta chuyện trong tháp Phồn, hiển nhiên bà biết rõ nội tình. Ta thuật lại sơ lược đối thoại của hai người, bà thở dài: "Vậy cũng tốt. Tào Bình phải tự mình nói với nó mới có thể khiến nó hết hi vọng, bằng không chưa biết chừng lúc nào đó nó lại muốn ầm ĩ với cha nó."

"Tào công tử đi chuyến này là do hoàng hậu sắp xếp ạ?" Ta hỏi Miêu thục nghi.

Bà đáp: "Là quyết định sau khi hoàng hậu và quan gia bàn bạc. Trước đó Tào Bình thỉnh tội với họ, quan gia thấy nó đã tỉnh táo lại rồi nên bằng lòng cho nó gặp lại công chúa một lần, nói rõ với nó."

Nói đến đây, Miêu thục nghi lại vỗ vỗ ngực: "Cảm tạ trời đất! Tốt xấu gì công chúa cũng hiểu chuyện, nghe xong lời Tào Bình cũng không khóc không quấy. Ban đầu trong lòng ta cứ lo ngay ngáy, chỉ sợ nó nhất thời không chịu nổi sẽ gây ra chuyện gì... Chuyện này trôi qua được vậy đúng là Phật tổ hiển linh, a di đà phật!"

Nhưng ta không cho là vậy. Ta biết tình cảm công chúa dành cho Tào Bình, cũng biết lời Tào Bình đã làm tổn thương nàng sâu sắc. Mà nàng lại bình tĩnh đến lệ cũng chẳng rơi lấy một giọt như thế, thực sự là quá bất thường, cũng khiến ta vô cùng lo lắng.

Vì vậy, ta đặc biệt dặn dò Gia Khánh Tử và Tiếu Diệp Nhi hầu hạ trong phòng công chúa đêm nay, nhất định phải để ý kĩ cử chỉ của công chúa, chớ lơ là.

Hai đứa nó đồng ý hết lời, nhưng sau đó, chuyện ta lo lắng vẫn xảy ra.

Nửa đêm, hai thị nữ tới gõ cửa phòng ta, nức nở nói: "Bọn em không cẩn thận ngủ mất, sau đó, sau đó..."

Một khắc ấy, con tim như ngừng đập trong chớp mắt, ta hỏi chúng: "Công chúa làm sao?"

Chúng đáp: "Không biết... Không có trong phòng, cũng không có trong gác... Không thấy đâu..."

Ta lập tức mở cửa gác, xông vào bóng đêm vô tận tìm nàng.

Ban đêm, những cửa ngõ thông ra ngoài cung và mấy khu đại điện đã đóng, thế nên phạm vi tìm kiếm thu hẹp lại rất nhiều, không bao lâu sau, ta tìm thấy nàng bên Dao Tân Trì.

Nàng toàn thân ướt đẫm, ôm đầu gối ngồi bên bờ hồ, vùi đầu vào khuỷu tay, mái tóc dài uốn lượn chấm đất, run rẩy trong gió đêm lạnh lẽo.

Có người giản lược kể lại cho ta tình huống: Nàng nhảy xuống nước, cũng may nội thị tuần đêm trông thấy, lập tức cứu lên. Sau đó không ngừng có nội thị và cung nhân nghe thấy động tĩnh qua đây, hết dìu lại choàng áo cho nàng, nhưng nàng vùng vẫy dữ dội, từ chối bất kỳ kẻ nào tới gần, cứ ngồi mãi đấy, đến áo bào nội thị đưa cũng bị nàng quăng ra xa.

Ta đi tới, đưa tay đỡ nàng, nàng cảm giác được, nhìn cũng không nhìn, lập tức vung tay tát lên mặt ta.

Ta không tránh né, cứ thế hứng trọn cái bạt tai. Bấy giờ nàng mới ngước lên nhìn ta, chợt ngẩn người.

"Hoài Cát..." Nàng nghẹn ngào gọi, ánh lệ dưới rèm mi lấp lóe, hệt như một đứa trẻ bị tủi thân bên ngoài cuối cùng cũng gặp được người nhà.

Ta mỉm cười với nàng, cúi người, ôn hòa nói: "Công chúa, chúng ta trở về thôi."

Nàng bi thương cúi thấp đầu, không nói gì, nhưng cũng không biểu lộ phản đối.

Ta vươn hai cánh tay bế nàng lên, đi về Nghi Phượng Các. Nàng rúc trong lòng ta, vùi đầu vào ngực ta, hơi ẩm rét mướt trên người xuyên qua lớp áo khô ráo của ta, thấm sang da thịt ta. Ta không biến sắc, ôm chặt nàng, tâm trạng lúc này cũng chẳng khác nào mái tóc dài hãy còn đang nhỏ nước của nàng, nặng nề mà ẩm ướt.

Bỗng nhiên, hai giọt dịch thể có độ ấm ngấm vào vạt áo trước ngực ta, đúng vị trí trái tim, ta không khỏi run lên như bị phỏng.

Kỳ thực, hai giọt nước ấy chỉ mang nhiệt độ bình thường mà thôi.

Kim thượng biết được việc này, trời chưa sáng đã chạy tới.

Khi đó công chúa đã thay xiêm y, nằm trên giường, bất kể Miêu thục nghi hỏi han khuyên lơn rưng rưng an ủi thế nào cũng không nói một lời, nghe phụ thân đến cũng chẳng đứng dậy mà đổi hướng quay vào trong, nhắm mắt làm bộ ngủ say.

"Huy Nhu..." Kim thượng khe khẽ gọi công chúa, không chờ được tiếng đáp lại của nàng, ngài cũng không gọi lại nữa, ngồi xuống bên mép giường, ngài nói với cô con gái trầm mặc: "Nhất định là con đang oán cha, tại sao phải chia rẻ con và Tào Bình, bắt con lấy Lý Vĩ... Nhớ rất nhiều năm trước, cha từng nói với con, chúng ta càng thích ai thì càng không thể để người khác nhìn ra mình thích người đó. Thể hiện rõ ràng sự yêu thích của mình với người đó chẳng khác nào đặt người ấy lên đầu sóng ngọn gió, cuối cùng sẽ hại họ. Bây giờ với Tào Bình chẳng phải là thế ư? Nó thông minh, đa tài, thiện xạ, còn biết tiếng Khiết Đan, tương lai có thể làm sứ thần Đại Tống ưu tú, đi sứ Khiết Đan lúc cần thiết. Thế nhưng, nếu con để lộ tình cảm của mình với nó, đòi hủy bỏ hôn ước lấy nó, nó lập tức sẽ trở thành đối tượng công kích dưới ngòi bút chư thần đài gián, các đại thần sẽ nói nó là kẻ điên rồ làm tổn hại đến đạo nghĩa quốc pháp và khinh nhờn tôn nghiêm quân quốc, yêu cầu cha nghiêm phạt nó, tiền đồ của nó và danh dự của con đều sẽ bị hủy sạch vì đó... Coi như cha bất chấp, che chở nó chu toàn, lại gả con cho nó, liệu đó có phải kết cục tốt chăng? Nó vốn là người trong hậu tộc, không gian phát huy tài năng có hạn, chẳng thể nhậm chức quan văn tham gia chính sự, cũng chẳng thể lĩnh quân thống soái chưởng quản binh quyền. Đảm nhiệm chuyên sứ là chuyện tối quan trọng duy nhất nam tử Tào thị có thể làm, nhưng nếu Tào Bình trở thành phò mã đô úy, thận phận con rể hoàng đế đặc thù, đến chuyện đi sứ cũng chẳng tiện làm. Hơn nữa, thần tử cả triều đều sẽ nhìn chằm chằm vào nó, nó mà bàn nhiều một câu về triều chính, trong nhà gặp nhiều thêm hai tay quan thần, đều sẽ bị đài gián hặc tội. Đấng nam nhi khó tránh khỏi lòng hoài chí lớn, sẽ không sa vào thú khuê phòng dài lâu, nếu Tào Bình cưới con, về lâu về dài, chỉ e cũng sẽ cảm thấy phiền muộn tiếc nuối vì không cách nào thi triển hoài bão ngập lòng, có phải không? So với tương lai sẽ vì vậy mà sinh lòng oán hận, hà cớ không buông tay ngay bây giờ, giữ lại cho cha một người tài dùng được?"

Nói đến đây, ngài không khỏi thở dài: "Phò mã đô úy quốc triều vốn không phải để cho tài sĩ làm. Người làm chồng công chúa không cần có tài năng ngút trời dậy nước, càng không cần có hùng tâm trị quốc bình thiên hạ, nếu con khăng khăng đòi lấy một nhân tài trụ cột, ngược lại sẽ hủy hoại tiền đồ của người ta. Phò mã đô úy chỉ cần có thể toàn tâm toàn ý với con, làm bạn với con vô tư lự, bình an hạnh phúc cùng qua kiếp này, đã là rất tốt rồi. Thế nên, một phò mã thiện lương, thận trọng, thành khẩn với mọi người sẽ thích hợp với con hơn một nhân tài lòng ôm chí lớn... Về phần tại sao lại chọn Lý Vĩ... Cha từng nói với con, cha là đứa con bất hiếu, khi Chương Ý thái hậu còn tại thế, cha từng gặp bà nhiều lần mà chưa từng đối xử với bà như với mẫu thân, trái lại, lần nào cũng ngồi yên nhận bà hành đại lễ... Khi ấy, cha cho rằng bà chẳng qua chỉ là một trong rất nhiều tần ngự của phụ thân... Bà mới hiền lành làm sao, chưa từng nhắc nhở hay ám chỉ cha điều gì, mỗi lần gặp cha đều cúi đầu, ngoài lúc hành lễ nói lời khách sáo ra thì cũng không nói thêm gì khác. Chỉ duy hôm bà rời cung thủ lăng cho tiên đế, sau khi bái biệt, bà mới ngẩng đầu nhìn cha một cái thật sâu, thần thái dịu dàng, trong mắt cũng không có nước mắt, vậy nhưng một khắc ấy, nỗi bi thương khóa kín sâu thẳm mấy chục năm của bà như hóa thành một cơn gió nhẹ, theo ánh mắt bà ùa vào lòng cha... Cha có cảm giác kỳ lạ thế mà vẫn để bà rời đi, sau mới biết khi đó mình đã phạm phải một sai lầm lớn... Mà nay, Lý Vĩ có cùng một tính tình với Chương Ý thái hậu, tuy tướng mạo không tương tự nhưng cặp mắt nó lại giống thái hậu như đúc, sẽ yên lặng biểu lộ thiện ý của nó với người ta... Nó là đứa hiền lành, nhất định sẽ đối tốt với con, Huy Nhu, nó sẽ một lòng với con, tận hết mọi khả năng nó có thể để chăm sóc cho con, cho con một cuộc sống yên ổn bình an."

Ngài dừng lại, dụng tâm nhìn công chúa, nhưng công chúa vẫn bất động, không mảy may có ý đáp lại. Kim thượng cụp mắt, buồn bã nói tiếp: "Con không thích nó là chê nó ngu dốt phải không? Nhưng ngu dốt thỏa đáng mà làm con rể hoàng đế chưa chắc đã là chuyện xấu... Năm đó cha còn từng nói với con, nếu thực sự thích ai thì thậm chí, cũng đừng để bản thân người ấy cảm nhận được mình thích họ nhường nào. Con hỏi vì sao, khi đó ta không trả lời, giờ nói cả đi vậy... Con cái thiên gia cách quyền bính quá gần, thế nên, nếu có người tiếp cận con, lấy lòng con, điều đầu tiên con cần làm là nghĩ xem vì sao họ lại làm như vậy, rốt cuộc là bởi thích bản thân con hay là thích quyền bính sau lưng con... Người làm bạn lâu dài bên con ngu dốt một chút cũng được, không có năng lực táy máy quyền mưu sẽ không ảnh hưởng đến quốc gia, dẫu thỉnh thoảng nó có nảy chút ý gì, con cũng có thể liếc mắt dòm ra, mặc nó quấy nhiễu vặt vãnh, con cũng chỉ coi như xem kịch. Nhưng nếu gần gũi với con là một kẻ thông minh đầu óc nhanh nhạy thì bất cứ lúc nào con cũng phải xốc dậy mười phần tinh thần, thoáng chút lơ là, trời biết nó sẽ lợi dụng tình yêu của con gây ra chuyện gì... Thế nên, con càng thích nó lại càng không thể để nó phát hiện... Con cũng chẳng giỏi khống chế tình cảm của mình cho lắm, chi bằng tìm một đứa ngu dốt ngay từ đầu cho rồi..."

Mấy câu cuối, ngài nói mà thương cảm, càng nói giọng càng thấp, cơ hồ không nghe thấy, tinh thần cũng dần ngơ ngẩn, chẳng đợi phản ứng của công chúa nữa, ngài từ từ đứng dậy, loạng choạng đi ra ngoài.

Ta bước lên đỡ ngài, dìu ngài suốt một đường tiễn ra Nghi Phượng Các.

"Ngày mai, ngươi điều một xe đi Dao Hoa Cung đón Vận Quả Nhi và Hương Duyên Tử về đi." Ra khỏi cửa gác rồi, ngài phân phó ta thế.

Ta vội tạ ơn. Ngài ngó ta, khẽ cười.

Thái độ ngài hiền hòa bỗng cho ta dũng khí xin ngài giải thích điều chưa rõ: "Thần cũng là người hầu gần bên công chúa, công chúa có lỗi, thần khó lòng từ chối trách nhiệm. Lúc trước vì sao quan gia không xử phạt thần như phạt Vận Quả Nhi và Hương Duyên Tử, điều thần rời khỏi công chúa ạ?"

"Nếu ngươi cũng rời khỏi nó, nó sẽ chỉ càng khổ sở hơn thôi." Kim thượng nói vậy. Sau đó, dưới ánh mắt ngơ ngác của ta, ngài từ chối nội thị tùy tùng dìu đỡ, cũng không lên bộ liễn, khăng khăng nặng nề lê bước, chậm rãi đi về phía Phúc Ninh Điện.

Kim thượng đi rồi, Miêu thục nghi lại vào phòng trông nom công chúa. Giày vò quá nửa đêm, hai mắt bà cũng sưng đỏ, mệt mỏi tiều tụy khôn thấu, lúc này thấy công chúa trước sau vẫn nằm yên bất động, cũng cho là nàng đã ngủ, dặn đi dặn lại thị nữ canh giữ công chúa cẩn thận, bấy giờ mới về phòng nghỉ ngơi dưới sự dìu đỡ của Hàn thị.

Ta không dám rời đi, bèn thủ ở gian ngoài buồng ngủ công chúa cùng Gia Khánh Tử và Tiếu Diệp Nhi. Hai cô bé bận rộn cả nửa ngày, lại hãi hùng hồi lâu, mãi giờ mới yên tĩnh được, sau một lát ngồi im, mí mắt Gia Khánh Tử buông xuống, gật gù như gà mổ thóc, Tiếp Diệp Nhi cũng không nhịn được ngáp dài, nhưng vừa há miệng đã sợ hãi tự phát hiện ra, vội vàng tạ lỗi với ta.

Ta bảo chúng về ngủ trước, nói một mình trông chừng là được. Chúng lưỡng lự, nhưng thấy ta kiên trì, cuối cùng vẫn sang gian kế ngủ.

Lúc này, ngoài trời bắt đầu mưa, ta vào buồng trong kiểm tra xem cửa sổ rèm sa đã đóng kỹ hay chưa. Chấn song mở hé, gió sương ướt áo, hơi lạnh thấm xương, ta nghĩ chẳng biết chăn nhiễu của công chúa có đủ chống lạnh hay không, bèn tiến lại hỏi, chỉ thấy hai vai nàng run lên nhè nhẹ, tuy quay vào trong, không để người khác thấy được vẻ mặt mình, song vẫn có tiếng khóc kìm nén vọng ra, hẳn là đang tự núp trong bóng tối rơi lệ.

Ta hơi khom lưng, vươn cánh tay phải ra, chìa ống tay áo tới trước mặt nàng.

Sau khi trở về, ta đã thay y phục, ống tay áo này rất sạch sẽ, còn thoang thoảng mùi hương xông áo.

Nàng cảm nhận được, mở mắt ra nhìn, rồi lại nhắm lại.

"Công chúa không cần ạ?" Ta ngậm cười, "Không thể lấy gối chăn ra lau nước mũi được nữa đâu – ướt hết cả rồi."

Trong một chớp mắt ngắn ngủi, đại khái là nàng đang suy tư xem nên tiếp tục khóc lóc đau thương hay cáu kỉnh hờn ta, cuối cùng vẫn không nhịn được, cho ta một tiếng "hứ" đẫm rượt hơi lệ.

Ta một lần nữa giơ tay áo qua, nàng cũng thôi cự tuyệt, kéo lấy hỉ mũi. Xong, nàng quay đầu nhìn ta: "Sao huynh còn ở đây?"

Ta trả lời: "Trông công chúa."

"Ai cần huynh trông!" Nàng cau mày, "Có cái gì mà trông?"

Ta nghĩ nghĩ, quyết định nói thật với nàng: "Thần sợ công chúa lại tự sát."

"Ta chết hay không thì liên quan gì đến huynh?" Nàng giận dỗi, "Ta chết rồi có gì không tốt với huynh đâu. Huynh có thể tiếp tục ở lại đây hầu hạ tỷ tỷ, cũng có thể điều sang gác khác hầu hạ nương tử khác, hoặc là xin đi Bí các quản lý thư họa huynh yêu thích... Nhiều chỗ tốt như vậy, sẽ không gây trở ngại đến con đường thăng chức của huynh."

'Công chúa nói không sai," Ta đáp, "Nhưng nếu công chúa không còn, thần biết đi đâu tìm một chủ tử viết thi từ sai hổng lỗ chỗ, lấy việc sửa tác phẩm của người ấy làm thú vui đây?"

Công chúa không biết mình nên cười hay mếu, cuối cùng lựa chọn đập ta một phát biểu đạt sự tức giận của mình: "To gan, huynh dám cười nhạo công chúa!"

Câu nói quen thuộc này lập tức đưa chúng ta trở về cảnh tượng nô đùa thuở thiếu thời trong ký ức, hai ta nhìn nhau, ta thấy ánh mắt nàng dần hóa êm dịu, đoán chừng bản thân mình cũng vậy.

"Thần nói thật đấy." Ta ngồi xuống đầu giường nàng, nhìn nàng nằm nghiêng bên ta, tìm kiếm bóng ta rọi trong con ngươi nàng, chậm rãi nói: "Sửa thi từ cho công chúa là chuyện rất vui sướng... Không chỉ sửa thi từ, dạy người học, trả lời câu hỏi của người, thậm chí, làm văn thay viết chữ hộ cũng đều vui vẻ... Đương nhiên, trước đây phải làm nhiều quá, đôi lúc cũng sẽ thấy hơi phiền, nhưng bây giờ nghĩ lại, đến cảm giác phiền hà bất kham ấy cũng sảng khoái biết bao... Thần muốn mãi thủ giữ bên người, làm tất thảy những điều người muốn thần làm. Trời mưa che ô cho người, gió nổi thêm áo cho người; bầu bạn khi đọc sách, thần châm trà cho người, lúc người gảy không hầu, thần thổi sáo cho người; người cười, thần đứng phía sau cùng cười với người, người khóc, bất cứ lúc nào thần cũng có thể dâng cho người một đoạn tay áo sạch sẽ... Mỗi một việc trong số này đối với thần đều là vui sướng, thế nên thần rất sợ sẽ có một ngày không nhìn thấy người nữa, bởi khi ấy thứ người mang đi sẽ là tất thảy vui sướng cả đời thần."

Nàng ngơ ngẩn nghe ta nói hết, trong khoảnh khắc lệ đã như mưa.

Nước mắt của nàng lúc này làm ta luống cuống, muốn tự mình lau lệ cho nàng lại sợ mình đường đột, hoảng hốt đứng dậy, hỏi: "Công chúa, thần nói sai rồi ạ?"

"Ôi, không phải." Nàng nghẹn ngạo, "Ta chỉ hơi lạnh..."

"Để thần đi lấy chăn." Ta vội nói, xoay người định chạy đi.

"Hoài Cát!" Công chúa chợt gọi ta, lúc ta ngoảnh lại nhìn nàng, thấy nàng chống người ngồi dậy, đôi mắt ngậm lệ chăm chú nhìn ta sâu thẳm, vươn tay về phía ta, "Ca ca, ôm ta..."

Sau một thoáng do dự ngắn ngủi, ta quay trở lại ngồi xuống bên cạnh nàng. Nàng nghiêng người qua, vòng tay ôm ta, vùi mặt vào ngực ta, lắng nghe tim ta đập, yên bình nhắm hai mắt lại.

Ta cũng từ từ ôm siết lấy nàng, trong lòng dậy lên một cảm giác an hòa vững chãi trước nay chưa từng có, tựa như nàng rốt cuộc cũng lấp đầy sinh mệnh khiếm khuyết, nửa đời hư ảo của ta, rốt cuộc cũng tìm ra ý nghĩa trong sự ấm cúng gắn bó giữa hai người này. Ngoài song mưa gió mịt mù, nhưng trong ánh sáng mờ tỏ nơi đây, cặp mắt mông muội suốt bao năm dưới đáy lòng ta lại bắt đầu trở nên trong suốt thông thấu.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen30h.Com